Nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về Nhà nước pháp quyền Việt Nam

Nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về Nhà nước pháp quyền Việt Nam

Nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về nhà nước pháp quyền việt nam nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua hoạt động giảng dạy môn nhà nước và pháp luật.

Thông qua hoạt động giảng dạy đối với môn học Nhà nước và pháp luật để nâng cao nhận thức hiểu biết của học viên về nhà nước và hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh phản bác, các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Từ đó, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Từ khóa: Nhà nước, Nhân dân, pháp quyền, xã hội chủ nghĩa.

1. Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thứ nhất, phủ nhận tính chất pháp quyền của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Có thể nói, tính chất pháp quyền đã trở thành một nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nó đã trở thành hạt nhân, cốt lõi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được thể hiện cụ thể ở khoản 1 Điều 2 và khoản 2 Điều 8 của Hiến pháp năm 2013. Khoản 1 Điều 2 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩacủa Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, còn khoản 1 Điều 8 đề cập rõ hơn nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”.

Trên cơ sở điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam và thành tựu chung của nhân loại, nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tư cách là nguyên tắc hiến định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nội dung cơ bản là pháp luật phải có vị trí tối thượng hay thượng tôn, tối cao với tất cả mọi chủ thể mà trước tiên là tất cả các cơ quan nhà nước. Pháp luật là sức mạnh cai trị tối thượng trong xã hội, không một ai được đứng trên pháp luật và bản thân chính quyền phải chịu sự kiềm chế của pháp luật.

Tất cả hoạt động của các cơ quan nhà nước, người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước đều phải căn cứ vào pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép và trong khuôn khổ pháp luật đã đặt ra. Đây là tư tưởng cốt lõi của nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tương ứng với chữ “quyền” trong cụm từ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đó là “quyền lực” của pháp luật đối với Nhà nước hay trực tiếp hơn là tất cả các cơ quan nhà nước. Như vậy quan điểm khẳng định tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam không có tính chất pháp quyền hay không theo nguyên tắc pháp quyền của các thế lực thù địch là hoàn toàn sai lầm, nhằm xuyên tạc bản chất của nhà nước ta.

Thứ hai, đưa ra quan điểm bộ máy nhà nước Việt Nam đang được xây dựng theo mô hình “tam quyền phân lập” và như vậy là đi theo con đường tổ chức bộ máy của các nhà nước tư sản.

Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã thể hiện sự ứng dụng Thuyết phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở mức độ kết hợp với tư tưởng chủ đạo truyền thống là tư tưởng Tập quyền. Sự kết hợp này được đúc kết thành nguyên tắc “Quyền lực tập trung” với hai nội sung sau: (i) Quyền lực nhà nước ở Việt Nam là thống nhất.

Sự thống nhất ở đây thể hiện ở hai phương diện. Về phương diện chính trị, quyền lực nhà nước tập trung thống nhất ở Nhân dân. Về phương diện tổ chức thực hiện, quyền lực nhà nước thống nhất ở Quốc hội. Thông qua hình thức dân chủ đại diện, Nhân dân trao toàn bộ quyền lực của mình cho Quốc hội. Dưới góc nhìn của Thuyết phân quyền thì quyền lực được trao bao gồm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Như vậy là từ “quyền lực thống nhất ở Nhân dân”, bằng cơ chế dân chủ đại diện, đã trở thành “quyền lực thống nhất ở Quốc hội” để quyền lực được tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước; (ii) Mặc dù Quốc hội là nơi thống nhất quyền lực nhà nước, song Quốc hội không trực tiếp thực hiện cả ba quyền mà trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội giữ lại quyền lập pháp để trực tiếp thực hiện vì đây là quyền quan trọng nhất.

Quyền hành pháp được giao cho Chính phủ và quyền tư pháp được giao cho Tòa án.[1] Nội dung này thể hiện sự áp dụng thành tựu của Thuyết phân quyền trong bộ máy nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, ba cơ quan này không thực hiện các quyền được giao một cách hoàn toàn riêng rẽ mà luôn có sự phối hợp để thực hiện từng quyền một cách hiệu quả. Đúng như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã xác định: “Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân”.[2] Mặc dù có cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền, song ở Việt Nam, Quốc hội luôn là nơi tập trung quyền lực được chuyển giao từ Nhân dân nên cho dù đã phân công quyền hành pháp cho Chính phủ và quyền tư pháp cho tòa án thực hiện, Quốc hội vẫn luôn có quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan này.

Như vậy, nguyên tắc “quyền lực tập trung” đã thể hiện được sự kết hợp giữa tư tưởng tập quyền truyền thống với những hạt nhân hợp lý của Thuyết phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, luận điệu cho rằng bộ máy nhà nước Việt Nam được tổ chức theo mô hình “tam quyền phân lập” và đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn sai lầm, xuyên tạc sự vận dụng Thuyết phân quyền ở mức độ hợp lý vào tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam.

Thứ ba, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và cho rằng ở Việt Nam chỉ có “Đảng trị” chứ không có “pháp quyền”.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là xu thế khách quan, tất yếu, mang tính quy luật, là yếu tố bảo đảm sự đúng hướng của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền dân chủ chân chính của Nhân dân, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và hợp tác quốc tế.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Việt Nam đã trở thành nguyên tắc hiến định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013 với hai nội dung: (i) Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước Việt Nam. Đây là nét đặc thù trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng và của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Trên thực tế thì các nhà nước trên thế giới thường do các đảng chính trị lãnh đạo. Song hiến pháp các quốc gia thường không quy định một cách rõ ràng và đương nhiên một đảng chính trị nào có vai trò lãnh đạo duy nhất.

Các đảng chính trị ở các quốc gia thường cạnh tranh với nhau để nắm vai trò lãnh đạo nhà nước thông qua các cuộc bầu cử phổ thông và cho một nhiệm kỳ nhất định. Khi hết nhiệm kỳ, các đảng chính trị lại tiếp tục cạnh tranh để giành quyền lãnh đạo nhà nước trong nhiệm kỳ mới. Chỉ có các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba mới quy định hoặc ghi nhận Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước; (ii) Hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên phải trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.[3] Điều này là hoàn toàn đúng đắn bởi triệt để tuân thủ pháp luật là tinh thần cốt lõi của nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các tổ chức Đảng, đảng viên không phải là ngoại lệ.

Như vậy, nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước” xác lập một mối quan hệ hai chiều của Đảng và Nhà nước. Một mặt Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước; mặt khác, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước đặt ra. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là “đứng trên pháp luật”, “không tuân thủ pháp luật” như những gì các đối tượng xấu cố tình bôi nhọ.

Thứ tư, lập luận rằng chỉ có nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa, không có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Theo luận điệu của các thế lực thù địch, nhà nước pháp quyền là giá trị tiến bộ đã được các nước tư sản vận dụng, xây dựng, thực hiện từ lâu, bây giờ Việt Nam đặt lại vấn đề xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và chỉ tồn tại nhà nước pháp quyền tư sản, không có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Đây là một luận điệu xuyên tạc hết sức nguy hiểm bởi vì kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh, tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền có thể phát sinh trong các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau. Tư tưởng này có tính toàn nhân loại, cho dù có sự giải thích và thực hiện một cách khác nhau phụ thuộc vào lợi ích xã hội, giai cấp, truyền thống dân tộc, trình độ văn hóa và nhiều yếu tố khác nữa.

Các nhà khoa học không chỉ nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử, từ nguồn gốc, nội dung, giá trị khoa học đến những hạn chế, xu hướng phát triển của nó hiện nay, mà còn luận giải để đưa ra căn cứ khẳng định có thể xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở tiếp thu, vận dụng và phát triển những nhân tố hợp lý trong tư tưởng về nhà nước pháp quyền của các thời đại trước.

Trên thực tế đã tồn tại quan niệm nhà nước pháp quyền tư bản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ có hai loại nhà nước pháp quyền như vậy bởi vì mặc dù nhà nước pháp quyền là mô hình có tính phổ biến, song không thể có mẫu hình nhà nước pháp quyền chung cho mọi quốc gia, dân tộc mà mỗi quốc gia, dân tộc tùy thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế – xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp, đồng thời lựa chọn cho mình cách thức xây dựng và vận hành mô hình nhà nước pháp quyền cho thỏa đáng. Nhà nước pháp quyền của mỗi quốc gia nhất định vừa phải thể hiện những dấu hiệu mang tính phổ biến, những giá trị chung của nhà nước pháp quyền, vừa có những dấu hiệu mang tính đặc thù, phản ánh những đặc điểm riêng của quốc gia, dân tộc mình.

tm-img-alt
Ảnh minh hoạ. Nguồn: internet

2. Một số giải pháp cơ bản nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua hoạt động giảng dạy môn Nhà nước và pháp luật

Thứ nhất, mỗi giảng viên cần không ngừng nghiên cứu, quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng về đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, xem bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ tự thân, cần được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc và thực chất, qua đó vừa chủ động phòng tránh nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với chính mình, vừa có thể tạo được sự lan tỏa và định hướng về tư tưởng đúng đắn cho người học, giúp họ nâng cao khả năng “miễn dịch” và tinh thần đấu tranh quyết liệt với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Thứ hai, mỗi giảng viên phải luôn nhận thức rõ sự nguy hiểm và những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng để trên cơ sở chức trách, nhiệm vụ của mình sẽ có những cách thức và hành động cụ thể nhằm đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn đó và có sự định hướng tư tưởng đúng đắn đến với người học. Cần chú ý việc nhận diện và phân biệt rõ về các loại quan điểm sai trái, thù địch để có những giải pháp xử lý hiệu quả, đặc biệt phân biệt rõ được đâu là quan điểm sai trái, thù địch, đâu là những ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân khác với quan điểm, đường lối của Đảng, tránh tình trạng “vơ đũa cả nắm”, quy chụp hết đó là những quan điểm thù địch dẫn đến những thái độ, ứng xử mang tính chủ quan, duy ý chí khi giảng dạy, trao đổi với học viên, đồng thời xây dựng các phương pháp trao đổi, thảo luận phù hợp với từng trường hợp.

Thứ ba, mỗi giảng viên phải không ngừng học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời phải tăng cường nghiên cứu, nắm bắt kịp thời những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn để từ đó có cơ sở khoa học, chắc chắn trong phân tích, làm rõ tính đúng đắn những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và luận giải những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn để từ đó giúp cho người học có cơ sở vững chắc để củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng; đấu tranh, phản bác lại một cách hiệu quả đối với những quan điểm điệu sai trái, thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Đặc biệt, trong quá trình giảng dạy, tùy vào từng bài giảng và từng nội dung, giảng viên phải linh hoạt trong gắn kết nội dung bài giảng với việc lồng ghép, dẫn chứng, liên hệ những vấn đề thực tiễn đang đặt ra mà các thế lực thù địch đang tập trung chống phá, để giúp học viên nhận thức rõ vấn đề và sẽ có tinh thần chủ động trong đấu tranh với âm mưu “diễn biến hòa bình” và những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Thứ tư, lồng ghép bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong từng bài giảng và trong nghiên cứu khoa học. Đối với bài giảng, lồng ghép trong từng bài giảng phù hợp với nội dung, kết hợp sử dụng đa dạng các phương pháp để kích thích tương tác của học viên. Đối với nghiên cứu khoa học, cần xây dựng thành nhiệm vụ thường xuyên, thực hiện các công trình nghiên cứu (bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học…).

 Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn. Nhiệm vụ quan trọng này đang đặt ra yêu cầu ngày càng lớn, là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong đó, nâng cao chất lượng giảng dạy môn Nhà nước và pháp luật là một trong những phương thức cần được quan tâm và đầu tư nghiêm túc, nhất là đội ngũ giảng viên phải nhận thức và thực hiện đầy đủ, phải thực sự là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hoá tư tưởng./.

TS. Đồng Thái Quang

Học viện Hậu cần, Bộ Quốc phòng

[1] Điều 69, Điều 94 và Điều 102 Hiến pháp năm 2013

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, tr. 38

[3] Khoản 3 Điều 4 Hiến pháp năm 2013

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. CTQGST, Hà Nội.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Tài liệu học tập các văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội.
  4. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
  5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
  6. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam.
  7. Viện Khoa học pháp lý (2018), Bình luận khoa học Hiến pháp hiện hành (năm 2013), Nxb. CTQGST, Hà Nội.

Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị

Bạn cũng có thể thích