Vì sao cáo thị xưa chỉ vẽ phác hoạ nhưng tội phạm khó trốn thoát?
Vì sao cáo thị xưa chỉ vẽ phác hoạ nhưng tội phạm khó trốn thoát?
Thời xưa, chân dung các tù nhân đều được các họa sĩ vẽ bằng tay, chỉ phác họa vài đường nét, ngoài việc có thể biết được giới tính và tên, một tờ cáo thị gần như không có thêm manh mối gì nhưng tội phạm vẫn khó mà chạy thoát.
Người xưa có câu: “lưới Trời lồng lộng, thưa mà khó lọt”,
những ai làm điều xấu cuối cùng sẽ bị trừng trị.
Khi xem các bộ phim truyền hình cổ trang của Trung Quốc,
chúng ta thường thấy các quan chức truy lùng tội phạm với bức chân dung, hoặc
triều đình dán “tờ cáo thị”.
Việc tìm
tội phạm truy nã của quan phủ không chỉ dựa vào hình vẽ tội phạm trên những tấm
cáo thị mà chủ yếu phụ thuộc vào 3 cách sau đây.
Hệ thống giấy tờ nhận dạng nhân thân
Hệ thống nhận dạng thời phong kiến khá giống với những loại
giấy tờ cá nhân của người dân ngày nay như chứng minh thư, căn cước công dân…
Trải dài qua nhiều triều đại, loại giấy chứng nhận thân phận này tại Trung Quốc
lại có những tên gọi khác nhau.
Thời phong kiến, nếu như 1 người không có giấy chứng
nhận thân phận này thì sẽ khó lòng thuê quán trọ để ở. Thậm chí, họ có đến nhà
dân để xin ở nhờ cũng rất khó. Nếu có người lạ đến nhà, người dân sẽ hỏi giấy
chứng minh thân phận đầu tiên. Nếu không có giấy đồng nghĩa rằng họ có lai lịch
bất minh, không thể lẩn trốn ở nhà dân.
“Chứng minh thư” của mỗi tầng lớp là khác nhau. Chẳng hạn
như bùa hổ, bùa cá, thẻ răng, thẻ thắt lưng,… những thông tin cần thiết như tên
người cũng sẽ được ghi rõ ràng trên đó.
Việc tìm nơi lẩn trốn với những tên tội phạm trở nên khá
“khó nhằn” vì cơ chế này. Bởi họ không thể trình giấy chứng minh thân phận ra
vì đang lẩn trốn. Nhưng nếu không trình ra, sẽ không ai cho họ ở nhờ hoặc thuê
trọ. Do đó, những tên tội phạm chỉ còn đường lang thang, ẩn dật tại nơi đầu đường
xó chợ hoặc những ngôi miếu hoang.
Tại những nơi này, những tên tội phạm có thể thoát khỏi sự
truy bắt nhưng lại không có chỗ ngủ nghỉ đàng hoàng, càng khó tìm kiếm thức ăn.
Nhưng nếu 1 khi ló mặt ra bên ngoài, họ lập tức sẽ bị những toán lính quan phủ tóm
gọn’ Có thể thấy, cho dù chúng chọn con đường nào thì cũng khó mà thoát
thân.
Quy chế tội liên đới
Quy chế này
được thực thi thời nhà Tần (Trung Quốc). Dựa theo quy định này, cứ 10 hộ
gia đình sẽ được quy thành 1 giáp (1 kiểu biên chế hộ khẩu thời xưa). Nếu như
trong số 10 hộ này có gia đình nào có người phạm tội, 9 hộ còn lại phải có
trách nhiệm báo cáo. Nếu không báo cáo sẽ phải chịu tội tương đương.
Không chỉ vậy,
vào thời xưa, sự khác biệt về ngữ điệu, cách phát âm (hay nói cách khác là giọng
địa phương) giữa các khu vực cực kì sâu sắc. 1 khi có người lạ từ nơi khác đến,
người dân bản địa rất nhanh sẽ nhận ra. Khi được hỏi về thân phận, nếu không
nói rõ được sẽ bị người dân báo lên quan phủ.
Tiền treo thưởng tìm được tội phạm
Trên những tờ
cáo thị, quan phủ sẽ ghi rõ số tiền treo thưởng cho ai tìm được tội phạm. Nếu
đích thân đưa tội phạm đến nha môn, số tiền thưởng sẽ càng nhiều hơn.
Số tiền treo
thưởng thường từ 100 đến 1.000 lượng bạc. Nếu quy đổi ra tiền hiện đại, ngay từ
thời nhà Đường, 1 lượng bạc đã bằng 3.000 NDT (khoảng gần 11 triệu VND). Tại thời
Tống, 1 lượng tương đương 1.300 NDT (tức khoảng gần 5 triệu VND). Như vậy, con
số 100 đến 1.000 lượng bạc tiền thưởng là khá lớn ở các thời đại đó.
Số tiền thưởng
này là một khối tài sản khổng lồ đối với những người dân bình thường thời bấy
giờ, đủ để khiến họ phải dốc hết tâm sức tìm kiếm những kẻ đào tẩu.
Tuy nhiên, để
giành được số tiền này cũng không dễ dàng. Bởi các đối tượng đang bị truy nã đều
phạm trọng tội, rất nguy hiểm. Thế nhưng, vào thời đại đó, vẫn có rất nhiều người
lao vào ‘săn’ tiền treo thưởng bắt tội phạm để 1 bước lên mây trở nên giàu có.