Văn bản phản hồi của Cơ quan điều tra – Viện Kiếm sát Nhân dân tối cao
Hồ sơ của bà Nguyễn Thị Như gửi Tòa soạn
Trong Đơn đề nghị bà Nguyễn Thị Như viết: “Tôi được cha ông để lại thửa đất hương hỏa trước năm 1980 có diện tích 370m2, số thửa 164, tờ bản đồ số 13 tại địa chỉ xóm 7, thôn 2, xã Dư Hàng Kênh (DHK), huyện An Hải, TP. Hải Phòng (nay là số 47/116 Chợ Hàng, phường Dư Hàng Kênh, Quận Lê Chân, TP. Hải Phòng). Đến năm 1990 tôi công đức cho xóm mở rộng ngõ nên chỉ còn lại 290m2.
Ngày 17/4/1997, tôi có làm giấy biên nhận (bản viết tay) với nội dung: “Tên tôi là Nguyễn Thị Như ở tại xóm 7 xã DHK. Tôi có nhượng cho chú Khương 40m2 đất thổ cư, có chiều rộng là 4m, chiều dài là 10m, với giá 12.600.000đ (mười hai triệu, sáu trăm ngàn đồng chẵn). Chiều 4m giáp vườn ông Cự. – 10m giáp ngõ đi vào vườn ông Cự. Nay tôi nhận đủ số tiền trên, Tôi viết giấy này để chú Khương làm bằng chứng.”.
Sau khi mua, ông Khương đã làm nhà đúng trên diện tích 40m2 và có mượn tôi phần đất nhỏ khoảng 9m2 phía trước để làm chỗ để xe. Việc mượn đất không được lập thành văn bản và không có người làm chứng.
Ảnh đầu là chữ ký của bà Như ký trong Giấy biên nhận viết ngày 17/4/1997; Ảnh sau chữ ký của bà Như do ông Nguyễn Thế Khương ký trong Đơn xin nhượng bán tài sản gửi UBND xã Dư Hàng Kênh; Ban quản lý đất đai xã Dư Hàng Kênh; Chi Cục thuế huyện An Hải. Ảnh chụp từ tài liệu do TAND TP Hải Phòng cung cấp
Đến năm 2009, ông Khương viết tay nhượng lại căn nhà trên mảnh đất 48m2 cho ông Khổng Trung Diến và lấy địa chỉ giả là “47A/116 CH cũ, phường Kênh Dương, Quận Lê Chân, TP Hải Phòng” (theo giấy mua bán giữa họ) cũng viết tay và không thông qua chính quyền, không người làm chứng. Thực tế thì đây là 1 địa chỉ giả mạo, sai tên đường, sai tên phường.
Ảnh đầu là chữ ký do bà Như ký; Ảnh sau là chữ ký do CCB Nguyễn Đình Tiến (chồng bà Như) ký
Căn cứ vào những giấy tờ đó, năm 2013 ông Khổng Trung Diến lại tiếp tục kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, TP. Hải Phòng. Chính quyền phường Dư Hàng Kênh đã tự lập ra danh sách công khai đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho căn nhà có địa chỉ “47A/116 đường Chợ Hàng, Phường Dư Hàng Kênh”.
Cán bộ địa chính và Chủ tịch phường Dư Hàng Kênh đã tự ý xác nhận vào tờ “phiếu lấy ý kiến tổ dân phố” ngày 11/09/2013 đã được ai đó lập khống, tự kê khai sẵn tên tôi và giả mạo chữ ký của tôi để hợp thức hóa về địa chỉ, nguồn gốc, thời điểm sử dụng mà không có sự có mặt của tôi.
Không rõ chữ ký của bà Như và ông Tiến đã được ai ký trong Biên bản Xác định ranh giới, mốc giới đất. Ảnh chụp từ tài liệu do TAND TP Hải Phòng cung cấp
Sau đó, cán bộ địa chính phường Dư Hàng Kênh đã tự lập các biên bản làm việc xác nhận danh giới, mốc giới thửa đất ngày 05/08/2013. Lập đo khống thêm diện tích sử dụng cho ông Khổng Trung Diến lên 49,3m2 và mạo danh chủ giáp danh là tôi, giả chữ ký chồng tôi, rồi đóng dấu công nhận quyền hợp pháp và trình cho UBND quận Lê Chân phê duyệt cấp quyền sử dụng đất. UBND phường Dư Hàng Kênh đã tự ý chia tách thửa đất 164 tờ bản đồ số 13 tách ra thành thửa đất 163 tờ bản đồ số 13 sang tên ông Khổng Trung Diến là thửa đất độc lập riêng biệt và không có tranh chấp để hợp thức hóa cho việc làm sai trái này.
Đầu năm 2017, UBND quận đã phê duyệt nhanh chóng quyền sử dụng đất cho ông Khổng Trung Diến với diện tích 49,3m2 mà không xem xét thẩm định kỹ hồ sơ. Tất cả những sự việc trên tôi đều không hề hay biết.
Năm 2018, ông Diến dỡ nhà cũ xây 3 tầng kiên cố đúng trên diện tích 40m2 khiến nhà tôi cạnh bên bị ảnh hưởng: tường bị xé nứt, vỡ mái mà không có sự bồi thường. Đồng thời, ông Diến xây quây kín chiếm luôn diện tích 9,3m2 phía trước để làm lối đi khiến cho gia đình tôi bị mất đất và mất lối đi riêng. Lúc đó ông Diến mới trình ra các giấy tờ thì tôi mới biết ông Khương đã nhượng cho ông Diến bằng các giấy tờ có dấu hiệu bị làm giả một cách tinh vi và sự phê duyệt sai trái của các cấp chính quyền.
Tôi đã làm đơn gửi ra phường và quận, toà án quận, tòa án TP. Hải Phòng. Nhưng sự việc này vẫn không được cơ quan nào giải quyết một cách thỏa đáng.
Ngày 30/11/2022, Tòa án nhân dân TP. Hải Phòng xét sử sơ thẩm công khai để thụ lý vụ án dân sự số 105/2021/TLST-DS ngày 01/12/2021 về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất và đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại phiên tòa này, Tòa án nhân dân TP. Hải Phòng đã ra Quyết định một cách khiên cưỡng, thiếu khách quan và có dấu hiệu bao che. Mặc dù, sau khi xác minh các chữ ký của tôi và chồng tôi (do Phòng kỹ thuật hình sự, CA thành phố Hải Phòng giám định) có đưa ra kết quả là “không đủ cơ sở để kết luận”, nhưng Tòa vẫn dựa vào đó để đưa ra phán quyết. Tòa án nhân dân thành phố và Viện Kiểm sát nhân dân TP. Hải Phòng đã tự cho rằng các chữ ký giả trong “đơn nhượng bán tài sản” là của chồng tôi, trong khi tôi và các con không ai công nhận, đem giám định thì không đủ cơ sở để kết luận. Cuối cùng, Tòa án nhân dân TP. Hải Phòng vẫn ra quyết định chỉ bồi thường 1,3m2 mà địa chính phường đã đo khống lên để bồi thường cho tôi. Tôi không đồng tình với kết luận trên của Tòa án nhân dân TP. Hải Phòng. Và tôi đã làm đơn kháng cáo.
Ngày 12/01/2023 tôi đã nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 86/2022 DS-ST ngày 30/11/2022 của Tòa án nhân dân TP. Hải Phòng lên các cấp có thẩm quyền.
Biết việc gửi đơn kháng cáo này là chậm so với quy định của pháp luật, nên ngày 09/01/2023, tôi đã làm đơn giải trình (V/v: Lý do nộp kháng cáo quá hạn) gửi tới Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân TP. Hải Phòng. (xin gửi đơn giải trình ngày 09/01/2023).
Tại đơn kháng cáo tôi có yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết 2 việc sau:
Thứ nhất, cần cho giám định lại chữ ký của chồng tôi (ông Nguyễn Đình Tiến) trong “Đơn xin nhượng bán tài sản được UBND xã xác nhận ngày 22/01/1997” và chữ ký của ông Tiến tại “Biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 05/8/2013” so với chữ ký của ông Nguyễn Đình Tiến được mang so sánh.
Thứ 2, cần triệu tập vợ chồng ông Nguyễn Thế Khương tới Tòa để thẩm vấn làm rõ số diện tích đất mà vợ chồng ông mua của vợ chồng tôi là 40m2 hay 48m2. Làm rõ vấn đề này sẽ giải quyết được nút thắt của vụ án.
Sau đó, đúng hẹn như Giấy triệu tập, tôi đã đến dự phiên họp xét kháng cáo quá hạn do Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội tổ chức.
Thông qua phiên họp này, ngày 24/4/2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành Quyết định số 29/2023/QĐ-PT Không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn.
Sau đó, ngày 22/5/2023, Tôi đã làm đơn xin kháng nghị giám đốc thẩm Bản án sơ thẩm số 86/2022 DS-ST ngày 30/11/2022 của Tòa án nhân dân TP. Hải Phòng gửi tới Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Đến ngày 16/6/2023, TAND cấp cao tại Hà Nội đã ký Thông báo Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị giám đốc thẩm số 1402/2023/TB-TA. Theo đó, Thông báo này yêu cầu tôi: “Cung cấp Bản án dân sự sơ thẩm số 86/2022 DS-ST ngày 30/11/2022 của Tòa án nhân dân TP. Hải Phòng được đóng dấu án có hiệu lực pháp luật hoặc bản án, quyết định phúc thẩm (nếu có).”.
Sau khi nhận được thông báo trên, tôi đã nhanh chóng hoàn tất thủ tục đáp ứng yêu cầu (cả về nội dung lẫn thời gian) gửi về Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Đến ngày 28/8/2023, tôi có nhận được một túi tài liệu ngoài phong bì có ghi: Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội/ Địa chỉ: Số 9, Phạm Văn Bạch, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội/Điện thoại: 024.3632 1258 gửi cho tôi.
Mở bao thư ra, tôi thấy có 2 thông báo, đó là: 1) Thông báo Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị giám đốc thẩm số 435/TB-VC1 ngày 06/7/2023 do Trưởng phòng Tiếp công dân và xử lý đơn Cao Thị Thu Thắng TUQ. Chánh Văn phòng TL. Viện trưởng ký đóng dấu; 2/ Thông báo trả lại đơn số 420/TLĐ-VC1-VP ngày 24/8/2023 do Chánh Văn phòng Lê Hồng Phong ký và đóng dấu – Là của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Còn lại là toàn bộ đơn và tài liệu của tôi do Viện gửi trả.
Sau đó, ngày 05/09/2023, tôi có làm Đơn khiếu nại ((V/v: Thông báo trả lại đơn số 420/TLĐ-VC1-VP ngày 24/8/2023 do Chánh Văn phòng Viện KSND cấp cao tại Hà Nội Lê Hồng Phong ký và đóng dấu) gửi Viện trưởng Viện KSND cấp cao tại Hà Nội. Trong Đơn khiếu nại này tôi có viết: “Thú thật với Quý Viện! Cái Thông báo số 435/TB-VC1 ngày 06/7/2023 của Quý Viện gửi đến khi nào gia đình tôi chưa một lần nhận được. Và chỉ được đọc nó khi tôi mở túi tài liệu do Viện gửi tới nhà vào ngày 28/8/2023 mà thôi.
Vì vậy, bằng văn bản này tôi đề nghị Quý Viện nên tìm hiểu lại con đường vận động Thông báo số 435/TB-VC1 ngày 06/7/2023 của Quý Viện xem nó đã được gửi và nhận như thế nào. Ai đã là người nhận nó mà không trao trả cho gia đình tôi..?”.
Từ ngày đó đến giờ, tôi chưa hề nhận được bất kỳ một văn bản nào từ phía tòa cấp cao và viện cấp cao tại Hà Nội phản hồi về vụ án của gia đình tôi…
Một vụ án có giá trị không lớn, tình tiết vụ án không phức tạp, tài liệu chứng cứ giả mạo của ông Nguyễn Thế Khương rất rõ ràng (mua 40m2 song khi đem nhượng lại cho vợ chồng ông Khổng Trung Diến và bà Vũ Thị Vân lại là 48m2); với tài liệu giả mạo chữ ký mắt thường cũng phân biệt được, song không hiểu sao Phòng kỹ thuật hình sự, CA thành phố Hải Phòng giám định lại đưa ra kết quả là “không đủ cơ sở để kết luận”. Quan trọng là nút thắt của vụ án này là ông Nguyễn Thế Khương (người đã gian dối làm giấy tờ giả) lại không được Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng mời tham dự phiên tòa để đối chất. Rồi đến việc hợp thức hóa các giấy tờ giả để làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Khổng Trung Diến, bà Vũ Thị Vân đã có sự tiếp tay của cán bộ địa chính phường Dư Hàng Kênh và quận Lê Chân. Nếu các cán bộ công chức quản lý địa chính của phường và của quận thực hiện nghiêm túc các quy trình cấp giấy chừng nhận quyền sử dụng đất cho người dân thì thử hỏi ông Khổng Trung Diến, bà Vũ Thị Vân có thể thực hiện được hành vi dùng giấy tờ giả để xin cấp giấy chừng nhận quyền sử dụng đất được không. Và nếu Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2013 thì tôi có thể bị thua trong vụ kiện này không? Để rồi tôi và các con tôi phải mất bao nhiêu thời gian, công sức đi gõ cửa các cơ quan có thẩm quyền để đòi lại công lý như thế này không?”.
Sau khi nghiên cứu đơn, hồ sơ và căn cứ khoản 2, Điều 12 Luật Báo chí số 103/2016/QH13, được Quốc hội thông qua ngày 05/04/2016 và các văn bản hướng dẫn, ngày 07/05/2024, Tạp chí điện tử Hòa nhập đã có Công văn số 22/2024/CV-ĐTHN chuyển đơn (kèm theo hồ sơ) của bà Nguyễn Thị Như gửi tới Thủ trưởng Cơ quan điều tra Viện Kiếm sát Nhân dân tối cao, để giải quyết theo thẩm quyền và thông báo kết quả giúp Tạp chí trả lời bạn đọc.
Văn bản số: 2405/VKSTC-C1 (P1) ngày 01/8/2024 của Cơ quan điều tra VKSND tối cao
Sau đó, ngày 08/8/2024, Tạp chí điện tử Hòa nhập nhận được Văn bản số: 2405/VKSTC-C1 (P1) ngày 01/8/2024 V/v thông báo công dân của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Điều tra viên cao cấp Bùi Thị Thủy TL. Thủ trưởng ký và đóng dấu.
Văn bản số: 2405/VKSTC-C1 (P1) có nội dung như sau: “Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận được văn bản số 22/2024/CV-ĐTHN của Tạp chí điện tử Hòa nhập, địa chỉ: B01, An Vượng Villa, KĐT Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội. Nội dung: chuyển đơn của bà Nguyễn Thị Như, địa chỉ: số 47/116 đường Chợ Hàng, phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, TP Hảỉ Phòng. Khiếu nại Thông báo trả lại đơn số 420/TLĐ-VC1-VP ngày 24/8/2023 của KSND Cấp cao tại Hà Nội về việc bà có dơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án số 86/2022 DS-ST ngày 30/11/2022 của TAND thành phố Hải Phòng.
Xét thấy nội dung đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết, Cơ quan điều tra VKSND tối cao trả lại đơn và thông báo để Tạp chí điện tử Hòa nhập biết.”.
Tạp chí điện tử Hòa nhập cảm ơn Lãnh đạo Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã đồng hành cùng Tạp chí thụ lý hồ sơ, thông báo sớm để Tạp chí có điều kiện trả lời bạn đọc./.
Nguồn: hoanhap.vn