Trực tiếp: Lao động về quê tránh dịch, trách nhiệm quản lý Nhà nước như thế nào?

* Xem trực tiếp chất vấn.

 

Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trả lời chất vấn. Ảnh VGP/Nhật Bắc.

Tại phiên họp, các đại biểu: Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương); Nguyễn Thị Thu Dung (Thái Bình); Huỳnh Thị Phúc (Bà Rịa – Vũng Tàu); Dương Minh Ánh (Hà Nội);… chất vấn Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) các nội dung: chăm lo cho trẻ em mồ côi cha mẹ vì đại dịch Covid – 19; giải pháp khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động ở các vùng kinh tế trọng điểm; giải pháp đơn giản hóa thủ tục để triển khai hiệu quả việc hỗ trợ người yếu thế bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid – 19, khắc phục tình trạng phát nhầm, nhận nhầm; giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp;…

 

Lập 80 trường đào tạo lao động chất lượng cao

 

Đại biểu nêu thực trạng đang có làn sóng “di chuyển kép” – người lao động về quê tránh dịch, một bộ phận lao động chân tay đơn thuần bị đảo thải trong cuộc cách mạng công nghệ. Vậy vấn đề đào tạo, nâng cao năng lực cho người lao động thời gian tới được sẽ được thực hiện như thế nào? Làm sao trong thời gian ngắn để người lao động ngang tầm ASEAN?

 

Trả lời đại biểu, Bộ trưởng Dung bày tỏ đồng tình về làn sóng kép người lao động rời thành phố. Ông thừa nhận, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam còn thấp. Theo dự báo, thời gian tới, 30% công việc yêu cầu kỹ năng lao động phải nâng lên.

 

Chúng ta đề ra mục tiêua đến năm 2030 có 40 – 45% lao động có chứng cử, bằng cấp đào tạo, Bộ trưởng cho rằng, đây là chỉ tiêu rất khó, phải quyết liệt thực hiện, tập trung vào việc đào tạo tại doanh nghiệp mới làm được.

 

Về chủ trương đào tạo lao động chất lượng cao, Bộ trưởng cho biết, Trung ương đã đồng ý chủ trương lập 80 trường đào tạo chất lượng cao trong nhiệm kỳ này, tập trung vào những ngành, lĩnh vực đang thiếu lao động, phân bố ở 3 khu vực trọng tâm.

 

Bên cạnh đó, Bộ trưởng cho biết, đào tạo nghề cũng sẽ được thiết kế theo hướng mở, học tập suốt đời; triển khai hợp tác công tư trong đào tạo nghề. Việc này có ý nghĩa quan trọng khi nhà nước xác định con người là trung tâm, là động lực cho phát triển.

 

Bộ trưởng nhấn mạnh, trong 5 năm tới, ngành giáo dục cũng như hệ thống đào tạo nghề phải đạt được bước tiến nổi bật so với hiện tại.

 

Mô hình “3 tại chỗ” chỉ phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ

 

Về vấn đề sản xuất theo mô hình “3 tại chỗ”, Bộ trưởng cho biết, trước Việt Nam, các nước Singapore, Malaysia đã áp dụng mô hình này. Sau đó, khi dịch bùng phát ở Bắc Giang, Bắc Ninh, 2 địa phương này cũng đã áp dụng.

 

Tuy nhiên, nhà nước không áp đặt mô hình với doanh nghiệp mà điều hành trên nguyên tắc đảm bảo an toàn mới sản xuất để doanh nghiệp và địa phương chủ động lựa chọn.

 

Bộ trưởng nêu quan điểm: “Mô hình này chỉ đúng với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quan điểm cá nhân của tôi là không áp đặt mô hình nào với doanh nghiệp. Tôi cũng có đọc các kiến nghị và thấy mô hình này chỉ phù hợp trong thời gian ngắn, quy mô vừa phải vì chi phí để vận hành rất lớn”.

 

Chủ tịch Quốc hội:
Chủ tịch Quốc hội: “phải xác định rõ nguyên nhân vì sao, trách nhiệm của các bộ, ngành hữu quan như thế nào, nhất là trách nhiệm của Nhà nước đối với dân”.

Lao động về quê tránh dịch, trách nhiệm quản lý Nhà nước như thế nào?

 

Trả lời chất vấn của của đại biểu về trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở đâu? Có sự lúng túng, bị động và không khi nhiều lao động từ các tỉnh, thành phố về quê tránh dịch? Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho rằng, Bộ LĐTB&XH có một phần trách nhiệm chứ không phải chịu trách nhiệm chính, vì vấn đề này còn liên quan liên quan đến cả việc di dân, vấn đề an ninh, trật tự, đi lại… liên quan rất nhiều bộ, ngành…

 

Cho ý kiến về vấn đề này, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho rằng, làn sóng lao động rời bỏ Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trọng điểm kinh tế phía Nam về các địa phương không chỉ một lần, mà là ba lần và theo số liệu của Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH thì con số này vào khoảng 3 triệu người. Đây là ý kiến đại biểu Trần Đình Gia (Hà Tĩnh) và những ý kiến của cử tri đã được tổng hợp thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Đoàn đại biểu Quốc hội gửi về Kỳ họp thứ Hai.

 

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị, từ nay cho đến kết thúc phiên chất vấn, các thành viên Chính phủ tranh thủ báo cáo giải trình, làm rõ thêm vấn đề này trước Quốc hội và trước cử tri.

 

“Chúng ta phải xác định rõ nguyên nhân vì sao, trách nhiệm của các bộ, ngành hữu quan như thế nào, nhất là trách nhiệm của Nhà nước đối với dân”, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.

 

Theo Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, vấn đề quan trọng hiện nay là giải pháp giải quyết việc thiếu hụt lao động ở các thị trường này. Thứ hai là giải quyết sinh kế là việc làm cho người lao động đang đi về các tỉnh. Quan trọng hơn nữa là qua việc này chúng ta rút ra được bài học kinh nghiệm gì trong việc phân tích, đánh giá, dự báo.

 

“Chúng ta có cam kết là không để xảy ra tình trạng này trong tương lai không, nhất là khi tình hình dịch bệnh đang rất khó lường? Chúng ta không được chủ quan, cần phải thảo luận về các nguyên nhân và trách nhiệm giải quyết các vấn đề sắp tới như thế nào và cần làm gì để không tái diễn thực trạng trên? Trách nhiệm của chính quyền Trung ương và cả chính quyền địa phương nơi có lao động rời đi và địa phương trở về và cách thức tổ chức nhận lại lao động như thế nào? Đây là những vấn đề cử tri rất quan tâm”, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.

 

Làm gì để kéo 1,3 triệu lao động trở lại làm việc?

 

Theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, lực lượng lao động trở về quê trong đợt dịch thứ tư là tương đối lớn, có ý kiến khác nhau về số liệu nhưng sau khi đã nghe và xem trực tiếp tổng kết tất cả báo cáo của các địa phương cùng với thống kê tiến hành rà soát, phân loại ban đầu thì con số chính thức lao động về quê của chúng ta khoảng 1,3 triệu người, chiếm 60% trong tổng số người dân di chuyển từ  Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các vùng trọng điểm kinh tế phía Nam về quê.

 

Qua khảo sát và làm việc với các tỉnh phía Nam cho thấy khoảng 30% người dân các địa phương đã về quê có nhu cầu quay trở lại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam làm việc; 30% muốn chuyển sang lĩnh vực khác ở các địa bàn khác, còn lại phần đông là muốn ở lại quê. Nhưng trong số ở lại quê thì cũng chỉ có khoảng 40% muốn có công việc tại quê.

 

Trên cơ sở đó, Bộ đã liên hệ và sau khi trao đổi với các địa phương thì thấy có ba vấn đề lớn. Thứ nhất, các địa phương cùng với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, vùng kinh tế trọng điểm có kết nối để vận động, thuyết phục, giới thiệu người lao động quay trở lại làm việc.

 

Thứ hai, các địa phương cũng chủ động liên kết, kết nối với các địa phương khác, thậm chí ngay cả trong vùng để có thể giới thiệu việc làm. Đơn cử như tỉnh Thanh Hóa, Bộ trưởng cho biết, thời gian qua đã giới thiệu người lao động về quê đi làm việc ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam. Riêng Bắc Giang, cho đến thời điểm này đã tăng hơn 50 nghìn lao động so với thời điểm trước dịch.

 

Thứ ba, là tạo việc làm tại chỗ, như Quảng Trị, Quảng Nam tiếp nhận toàn bộ những công nhân nghề may và một số lĩnh vực khác cho công nhân làm việc tại địa phương mình.

 

Bộ trưởng cho rằng, cần tập trung triển khai các chính sách như chính sách giảm nghèo, chính sách cho vay quỹ quốc gia giải quyết việc làm… để hỗ trợ cho người lao động có thể ổn định, tạo công việc mới ở địa phương.

 

Vì sao chính sách hỗ trợ chưa đồng đều, có nơ có, có nơi không?

 

Liên quan đến kết quả triển khai gói hỗ trợ an sinh xã hội cho lao động tự do, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, rút kinh nghiệm từ Nghị quyết 42/NQ-CP, trong Nghị quyết 68, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo phải tạo ra sự linh hoạt cho địa phương.

 

Vì vậy, sau khi khảo sát, đánh giá, Bộ mới đưa ra đề xuất một chính sách như chỉ quy định sàn mức hưởng cho lao động tự do, còn đối tượng và mức như thế nào là do địa phương xem xét, quyết định trên cơ sở ngân sách cũng như đối tượng cụ thể.

 

Thực tiễn, nếu năm 2000 chúng ta chỉ hỗ trợ được 1 triệu người, thì với Nghị quyết 68 đã có 56 tỉnh, thành phố báo cáo đã hỗ trợ cho 12,99 triệu lao động tự do, kinh phí tới 16,99 nghìn tỷ đồng. 

 

Nhưng vì sao chính sách hỗ trợ chưa đồng đều, có nơi được có nơi không? 

 

Bộ trưởng cho rằng, điều này phụ thuộc vào quy định chính sách, ngân sách của địa phương, người lao động có nằm trong nhóm mà địa phương quy định hay không. Có những địa phương ngân sách dự phòng không còn, do đó chưa hỗ trợ hoặc chậm hỗ trợ lao động tự do cũng là một nguyên nhân.

 

Bộ trưởng cho biết, sau khi tổng kết Nghị quyết 68 sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ để có thể điều chỉnh những vấn đề chính sách cho phù hợp hơn.

Ngăn chặn tình trạng trục lợi chính sách 

 

Đại biểu nêu vấn đề, thời gian qua dư luận rất bất bình về trục lợi chính sách hỗ trợ và đề nghị Bộ trưởng cho biết công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm được tiến hành như thế nào?

 

Trả lời đại biểu, Bộ trưởng nhấn mạnh, khi xây dựng Nghị quyết 68/NQ-CP, Quyết định 23/2021/QĐ-TTg, Quyết định 33/2021/QĐ-TTg, Nghị quyết 116/NQ-CP, Nghị quyết 126/NQ-CP, tất cả các chính sách này đều quy định rất rõ, phân công trách nhiệm cho người đứng đầu của tổ chức địa phương, của các ngành được phân công.

 

Ví dụ, liên quan đến chính sách vay cho người lao động thì Thống đốc Ngân hàng; liên quan đến toàn bộ gói hỗ trợ tiền mặt chỉ đạo là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; liên quan hỗ trợ các gói về vay vốn và giải quyết việc làm cũng như bảo hiểm thì giao cho Tổng giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.

 

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo trực tiếp Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, bảo hiểm, ngân hàng tổ chức 12 đoàn kiểm tra ở 33 tỉnh, thành phố.

 

Kết quả cho thấy ở một số địa phương đã xảy tình trạng trục lợi. Cụ thể, gói hỗ trợ theo Nghị quyết 42 đã phát hiện và xử lý 4 trường hợp ở 4 địa phương, trong đó có những địa phương cách chức cả Bí thư, Chủ tịch Mặt trận, Bí thư Đoàn Thanh niên vì lý do để người nhà trong danh sách hộ nghèo và danh sách hưởng chính sách.

 

Đối với gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 68, Bộ trưởng thừa nhận là có, thậm chí cơ quan chức năng đã khởi tố hình sự 2 trường hợp trục lợi chính sách, đưa người không thuộc đối tượng được hưởng vào danh sách để rút tiền trục lợi.

 

Hiện nay tất cả các địa phương đều quan tâm kiểm tra, giám sát, điều chỉnh. Theo Bộ trưởng “đây là điều không tránh được”, tuy nhiên về cơ bản các địa phương đã đảm bảo được công khai, minh bạch, đúng đối tượng.

 

Khuyến khích thiện nguyện nhưng phải đúng luật

 

Trước những bức xúc của dư luận về việc một số cá nhân làm từ thiện thiếu minh bạch, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, về nguyên tắc nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia làm thiện nguyện, giúp đỡ người khó khăn, gặp thiên tai, địch họa.

 

Nhà nước cũng quy định 2 cơ quan tham gia việc kiểm tra, giám sát hoạt động này là Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam. Theo Nghị định 64, đây là 2 cơ quan đứng ra tổ chức các hoạt động này. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định cụ thể hoạt động huy động tiền thiện nguyện của các cá nhân, tổ chức khác thế nào, khâu cấp phát ra sao.

 

Vừa qua, các tổ chức cá nhân đã thực hiện việc mua, chuyển hàng đến người dân khó khăn. Chúng tôi chủ trương khuyến khích nhưng làm từ thiện phải trên cơ sở có nguyên tắc, quy định pháp luật.

 

Chính vì vậy, Thủ tướng đã giao Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi Nghị định 64, và mới đây Chính phủ đã ban hành Nghị định 93 để thay thế. Trong đó, nêu rõ cách làm, huy động bằng tiền, quyên góp hiện vật thì đều có hướng dẫn cụ thể. Bộ trưởng bày tỏ: Khi Nghị định 93 có hiệu lực, hoạt động từ thiện này sẽ đi vào nền nếp. Còn vừa qua, ai làm sai chúng ta buộc phải xử lý, dù không muốn.

 ớc: Nghị định 93 đã khắc phục được những hạn chế trong công tác thiện nguyện.

Nghị định 93 đã khắc phục những hạn chế trong công tác thiện nguyện

 

Giải trình thêm về quản lý hoạt động thiện nguyện, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, Nghị định 64 năm 2008 về hoạt động này đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm và đã được khắc phục bằng Nghị định 93 vừa ban hành.

 

Nghị định 93 đã quy định rõ các đối tượng từ MTTQ đến Hội Chữ thập đỏ, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động vận động tài trợ, thiện nguyện, việc phân bổ các vật tư, hàng hóa cho đối tượng được thụ hưởng; phải ghi chép cụ thể các chi tiêu; được mở các tài khoản với từng đợt huy động và sau vận động phải đóng tài khoản; quy định chế độ báo cáo một cách chặt chẽ như trước khi vận động thì phải đăng ký với UBND nơi vận động, trong vòng 3 ngày, ủy ban phải trả lời người dân về việc vận động từ thiện…

 

Nghị định 93 cũng quy định các hình thức vận động; thanh tra hoạt động vận động tài trợ xem có đúng quy định pháp luật hay không.

  

Bộ trưởng Tô Lâm: Bộ Công an đang giao Cục Cảnh sát hình sự xem xét các nguồn tin về việc sử dụng tiền cứu trợ người dân trong đợt mưa lũ ở miền Trung năm 2020.
Bộ trưởng Tô Lâm: Bộ Công an đang giao Cục Cảnh sát hình sự xem xét các nguồn tin về việc sử dụng tiền cứu trợ người dân trong đợt mưa lũ ở miền Trung năm 2020.

Cơ quan Công an đang xác minh những “lùm xùm” tiền từ thiện

 

Liên quan đến ý kiến của một số đại biểu về tiếp nhận giải quyết các đơn tố cáo về sai phạm trong khuyên góp từ thiện, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho biết, hiện Bộ Công an đang giao cho Cục Cảnh sát hình sự tiến hành thụ lý, kiểm tra xác minh các nguồn tin trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông tin của người dân về hoạt động quyên góp, nhận từ thiện, cứu trợ trong đợt mưa lũ xảy ra tại miền Trung năm 2020 của một số nghệ sĩ để làm rõ theo quy định của pháp luật.

 

“Hiện nay, Cục Cảnh sát Hình sự đang phối hợp với ngân hàng tiến hành rà soát xác định những tài khoản đã huy động từ thiện để làm rõ việc tiếp nhận, đóng góp, quá trình giải ngân; phối hợp với UBND, MTTQ Việt Nam các cấp của các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi… xác minh, làm rõ số tiền, hàng các nghệ sĩ đã tiến hành cứu trợ tại các địa phương.

 

Bên cạnh đó, cũng đã mời các cá nhân, tổ chức có liên quan làm việc, cung cấp các thông tin có liên quan để kết sớm kết luận vụ việc theo quy định của pháp luật” – Bộ trưởng Tô Lâm cho biết.

 

Bộ trưởng cũng thông tin, Cục Cảnh sát Hình sự đã chỉ đạo lực lượng Cảnh sát hình sự toàn quốc rà soát, nắm tình hình hoạt động từ thiện diễn ra trên địa bàn, kịp thời phát hiện những tổ chức, cá nhân lợi dụng hoạt động từ thiện để trục lợi, chiếm đoạt tài sản.

 

Qua rà soát tại các địa phương, hiện nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã tiếp nhận 6 tố giác tội phạm của công dân có liên quan đến việc biển thủ tiền từ thiện của các nghệ sỹ. Hiện nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức tiếp nhận, phân loại 6 tố giác theo đúng quy trình của pháp luật tố tụng hình sự.

 

“Mọi công việc đang tiến hành theo đúng quy định của pháp luật”, Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định.

Bộ trưởng Tô Lâm cho biết, qua công tác rà soát, Bộ Công an sẽ kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động tiếp nhận, phân bổ, sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân vượt qua khó khăn, khắc phục thiên tai, hỏa hoạn, các sự cố nghiêm trọng, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo… theo hướng bổ sung các quy định để hoạt động này đảm bảo công khai minh bạch.

 

 

Người dân còn đói thì đừng có nghĩ đến việc về nhà!

 

Trả lời vấn đề của đại biểu về giải pháp khắc phục tình trạng chậm triển khai hỗ trợ người dân, Bộ trưởng cho biết, ngay sau khi dịch C – 19 bùng phát lần thứ 4, các cấp lãnh đạo đã giao Bộ đề xuất, xây dựng chính sách hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Thực hiện nhiệm vụ được giao, các cán bộ trong ngành đã làm ngày làm đêm, thứ bảy, chủ nhật nào cũng làm.

 

“Tinh thần tôi nói thẳng là: người dân còn đói thì đừng có nghĩ đến việc về nhà!” Theo đó, anh em đều rất quán triệt, triển khai xây dựng chính sách rất nhanh. Chúng tôi đã cố gắng hết mức, chỉ những việc vượt luật thì để lại, còn vướng mắc nào thuộc thẩm quyền Chính phủ thì trình sửa ngay, Bộ trưởng chia sẻ.

 

Theo Bộ trưởng, các chính sách theo Nghị quyết 68 và Nghị quyết 116 không thể nào thông thoáng hơn, có chính sách như hỗ trợ từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, người lao động không phải kê khai gì, chỉ chờ tiền về tài khoản. Nghị quyết 68 cũng chỉ phát hiện 2 vướng mắc và đã sửa ngay bằng Nghị quyết 126.

 

Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng thừa nhận, việc triển khai có nơi còn cứng nhắc. Ông dẫn chứng, có một địa phương chỉ chi tiền ăn hỗ trợ F0 và trẻ em phải cách ly mà trình bày 3 trang giấy về vướng mắc. “Tôi phải nói, các đồng chí cứ làm đi, tiền ăn của F0 và trẻ em mà sai thì tôi chịu trách nhiệm. Từ đó địa phương mới cho thanh toán”, Bộ trưởng chia sẻ.

 

Đã xử lý xong việc phát nhầm tiền hỗ trợ

 

Giải trình về thông tin tỉnh Bình Dương phát nhầm tiền hỗ trợ cho khoảng 22.000 người, Bộ trưởng khẳng định, đây là sự nhầm lẫn đáng tiếc và cho biết, ngay sau thời điểm nhận được thông tin, Bộ trưởng đã liên hệ với Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương, nghiên cứu kỹ báo cáo của ngành lao động, thương binh và xã hội địa phương, đồng thời cử ngay đoàn công tác vào kiểm tra, xử lý.

 

Tham gia đoàn còn có đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động và một số bộ, ngành liên quan… Tại địa phương, đoàn đã kiểm tra thực tế tình hình, gặp những người trực tiếp phát, trực tiếp nhận. 

 

Bộ trưởng cho biết, con số cụ thể không phải là 22.000 người mà chỉ khoảng 1.490 trường hợp. Đây là chính sách của tỉnh Bình Dương hỗ trợ thêm cho người lao động như giảm giá nhà trọ trong lúc khó khăn với mức 800 nghìn đồng/người.

 

Tuy nhiên trong quá trình kê khai, số lượng tăng lên quá nhiều, tỉnh Bình Dương thấy bất thường đã tiến hành rà soát lại bằng máy, đồng thời mời Bộ Công an và Ngân hàng Chính sách xã hội vào cuộc, cùng rà soát trên cơ sở dữ liệu mới thấy tình trạng trùng lắp.

 

Trên cơ sở đó, tỉnh Bình Dương đã dừng việc này và tiến hành rà soát lại nhưng đã có 1.990 người nhận với số tiền khoảng 1,6 tỷ đồng.

 

Các trường hợp này phần lớn đã hoàn trả lại vì tự nhận thấy mình nhận không đúng. Đến nay, công việc này đã giải quyết xong và 1,6 tỷ đồng cũng đã thu hồi đầy đủ.

 

Các chính sách đang đi đúng hướng, phát huy tác dụng

 

Về kết quả sau 4 tháng triển khai gói hỗ trợ 26 nghìn tỷ, Bộ trưởng cho biết: Trong quá trình thực hiện, tuy còn điều này, điều kia nhưng cơ bản các chính sách đều đang đi đúng hướng và hiệu quả, thiết thực ở cơ sở, được dư luận xã hội cũng như người thụ hưởng đồng ý.

 

Tuy nhiên, thời gian 4 tháng này cũng còn rất ngắn so với chính sách bởi vì trong các chính sách này phần đa (khoảng 50%) là chính sách có tính chất hỗ trợ tức thì còn lại khoảng 50% các chính sách cho phép kéo dài hơn. Ví dụ như chính sách vay trả lương để phục hồi sản xuất cho phép kéo dài hết 31/3/2022, chính sách để hỗ trợ đào tạo lại cho lực lượng lao động sau giãn cách thì cho phép kéo dài làm thủ tục hết tháng 6/2022.

 

Còn những chính sách cụ thể thì có hiệu quả ngay như chính sách hỗ trợ bằng Nghị quyết 116 quy mô 38 nghìn tỷ đồng cho người tham gia bảo hiểm và đang bảo lưu chính sách bảo hiểm xã hội từ bảo hiểm thất nghiệp thì chỉ trong 5 ngày thôi chúng ta đã rà soát và giải quyết hỗ trợ cho 363 nghìn doanh nghiệp được hưởng chính sách này.

 

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phấn đấu 15/11 này giải quyết căn bản số hỗ trợ này. Bộ trưởng khẳng định, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng về cơ bản chính sách của chúng ta đang đi đúng hướng và bước đầu cho thấy phát huy tác dụng.

 

Hơn 2.500 trẻ em mồ côi vì đại dịch Covid – 19 

 

Về vấn đề chăm sóc trẻ em mồ côi do bố, mẹ mất vì dịch bệnh Covid – 19 , Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, trên thế giới có hơn 1,5 triệu trẻ em trở thành trẻ mồ côi do dịch Covid – 19. Việt Nam có 2.532 trẻ em bị mồ côi, trong đó có 81 trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ.

 

Thời gian qua, Bộ LĐTB&XH đã chủ động xây dựng, thực hiện các chính sách liên quan đến bảo trợ trẻ em. Mức chung, hỗ trợ trẻ em trong các làng trẻ SOS của Việt Nam hiện nay tương đối đồng bộ với thế giới, khoảng 1,8 triệu đồng/tháng.

 

Bộ trưởng cho biết, với số cháu mồ côi do dịch Covid – 19 , ngoài các chính sách đã có, các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể đã vận động hỗ trợ các cháu tương đối tốt.

 

Riêng Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam hỗ trợ tất cả các cháu mồ côi 5 triệu đồng, các cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ được tặng sổ tiết kiệm 20 triệu đồng.

 

Phương châm của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là vận động để tất cả các cháu đều có mái ấm gia đình, đều có người thân đỡ đầu.

 

“Hiện nay cả 81 cháu đều được sống với người thân, trong trường hợp không có người thân chúng tôi và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam sẽ tìm mẹ đỡ đầu cho các cháu. Trường hợp xấu nhất mới đưa vào các trung tâm bảo trợ xã hội”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định.

 

Nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam

 

Trả lời chất vấn về giải pháp đổi mới giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế đất nước, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nêu rõ: Trước hết đổi mới giáo dục nghề nghiệp theo tinh thần chung, bám vào nguyên tắc chung là thực hiện theo Nghị quyết 29 của Trung ương, phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nghề nghiệp.

 

Thứ hai, đổi mới giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, đa dạng.

 

Thứ ba, gắn kết chặt chẽ giữa Nhà nước, nhà trường với doanh nghiệp, phấn đấu để thực hiện mục tiêu là người dân hay nói cách khác là các bậc cha mẹ ủng hộ cho con cái học nghề. Làm sao để có chính sách, vừa tuyên truyền, xây dựng các thương hiệu tốt của các trường nghề, để học sinh tham gia nhiều hơn. Đồng thời trong quá trình học nghề, sinh viên được học liên thông nếu có nhu cầu. Đối với trường nghề, phải làm sao để khi học sinh ra trường có việc làm và có thu nhập tốt.

 

Cuối cùng, Bộ sẽ xây dựng một chương trình nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập theo tinh thần của Chỉ thị 14 của Thủ tướng Chính phủ.

Phải làm gì để “kéo” người lao động trở lại sản xuất? 

 

Về giải pháp giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động trong các khu công nghiệp, Bộ trưởng cho biết: Trong Báo cáo số 177 ngày 8/11 gửi Quốc hội ông đã viết rất kỹ (bốn trang) về các giải pháp này, trong đó đề cập sâu vào giải pháp giữ chân người lao động; thứ hai là thu hút người lao động quay trở lại; thứ ba là giải quyết việc làm cho người lao động ở những nơi mà họ đã về mà họ không trở lại nơi cũ và cũng không tìm việc làm mới; thứ tư là giải pháp điều tiết bổ sung trong những trường hợp đặc biệt ở những địa bàn, đối tượng, lĩnh vực cấp thiết.

 

Trong đó, theo Bộ trưởng, có mấy vấn đề quan trọng nhất: Một là, chúng ta phải lo thật tốt về chính sách, về đời sống, mức lương, thu nhập. Hai là, phải chăm lo an sinh thật tốt, phải có một sàn an sinh tối thiểu để người lao động có thể yên tâm đó là vấn đề nhà trọ, nhà ở, vấn đề sinh hoạt, vấn đề nơi có thể gửi con, chăm sóc con cái. Ba là phải bảo đảm cho an toàn tính mạng, sức khỏe của họ đó là tiêm vaccine.

 

Về giải pháp khắc phục những hạn chế an sinh xã hội lâu dài, Bộ trưởng cho biết, chủ trương Nghị quyết Đại hội Đảng XIII nêu rất rõ, chúng ta phấn đấu phát triển kinh tế thì đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội; không đánh đổi tiến bộ, công bằng xã hội để lấy phát triển kinh tế đơn thuần. Vì vậy, hiện nay mặc dù ngân sách còn nhiều khó khăn nhưng Việt Nam là một trong những quốc gia được xếp đứng đầu khối ASEAN về đầu tư ngân sách cho an sinh xã hội. Chúng ta có các chính sách tương đối đồng bộ và hoàn thiện kể cả cho người có công, người yếu thế, người già, người có hoàn cảnh neo đơn, cho trẻ em và các đối tượng khác.

 

Thời gian tới, theo chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đang tiếp tục hoàn thiện và xây dựng Đề án dự kiến đầu năm 2023 sẽ trình Ban Chấp hành Trung ương về củng cố, nâng cao chất lượng an sinh hay nói cách khác là nâng cao chất lượng các chính sách xã hội của người dân Việt Nam trong thời gian tới. Trong đó có rất nhiều vấn đề liên quan như đời sống, thu nhập cho người nghèo như thế nào, cho người yếu thế ra sao, cho người có công thế nào, về nước sạch và vệ sinh môi trường ra sao,… để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, phân hóa xã hội, để mọi người ai cũng được tham gia và ai cũng được thụ hưởng thành quả xã hội.

 

Cần sớm có chính sách quy mô lớn hơn để giải quyết vấn đề lao động, an sinh

 

Phát biểu mở đầu phiên chất vấn và trả lời chất vấn, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, thời gian qua các vị đại biểu và cử tri cả nước đã gửi nhiều chất vấn, yêu cầu. Trong thẩm quyền của mình, chúng tôi đã trả lời, giải đáp và cố gắng ở mức cao nhất để tổ chức thực hiện có hiệu quả công việc, từng bước nâng cao chất lượng tham mưu quản lý nhà nước về lĩnh vực xã hội.

 

Với chức năng, đối tượng phục vụ rộng lớn, có tác động đến đời sống xã hội, trong đó nhiều lĩnh vực, công việc của Bộ được chủ động trong tổ chức thực hiện nhưng có nhiều công việc mang tính chất phối hợp phụ thuộc kết quả triển khai của các địa phương, các bộ, ngành.

 

Đại dịch Covid – 19  không chỉ tác động sâu sắc tới y tế, sức khỏe của người dân mà còn tác động tiêu cực tới đời sống xã hội, việc làm, khiến sinh kế của người dân bị đảo lộn, giảm sút về việc làm và thu nhập.

 

Đối với nước ta, do tác động của đại dịch, nhất là từ khi đợt thứ 4 bùng phát tới nay đã và đang gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng tới các hoạt động kinh tế – xã hội, đời sống của hàng triệu người lao động và người dân, nhất là khi dịch xâm nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trọng điểm kinh tế phía Nam, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp nơi sử dụng đồng lao động.

 

Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước và các địa phương đã chủ động ban hành nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động.

 

Đến nay, các gói hỗ trợ, các gói an sinh xã hội của Trung ương và các địa phương ban hành và đang triển khai đã góp phần quan trọng hỗ trợ người dân chung tay vượt qua nhiều khó khăn, từng bước ổn định cuộc sống, tinh thần tương thân, tương ái, nghĩa cử cao đẹp, những tấm gương sáng cộng đồng đang lan tỏa thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.

 

Tuy nhiên, trong lĩnh vực lao động, việc làm, an sinh an, dân và xã hội đã và đang có nhiều hệ lụy do tác động đại dịch để lại. Quy mô các chính sách hỗ trợ của chúng ta còn thấp, đòi hỏi sớm có chính sách hỗ trợ với quy mô lớn hơn, thời gian đủ dài, phạm vi đủ rộng để phục hồi, phát triển thị trường lao động và các vấn đề liên quan đến an sinh xã hội.

 

Công tác bảo vệ quyền trẻ em, đặc biệt là trẻ em mồ côi do đại dịch;Theo đó, Quốc hội chất vấn các nội dung: Việc thực hiện các gói hỗ trợ cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid – 19 , bảo đảm tiến độ, đúng đối tượng, hiệu quả;

 

Thực trạng và nguyên nhân người lao động rời thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh kinh tế trọng điểm phía Nam trong nhiều đợt;

 

Giải pháp tháo gỡ những khó khăn của thị trường lao động theo diễn biến của dịch;

 

Chính sách thu hút lực lượng lao động trở lại làm việc và giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm đối với lực lượng lao động bị mất việc;

 

Việc chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan theo dõi, kiểm tra việc thực hiện cứu trợ, thiện nguyện bảo đảm đúng chế độ, chính sách.

 

Theo chương trình, trong quá trình Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trả lời chất vấn, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam và các Bộ trưởng các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Y tế; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cùng tham gia trả lời chất vấn, giải trình về những vấn đề có liên quan.

 

Trước phiên chất vấn, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung đã có báo cáo gửi đến Quốc hội nội dung liên quan đến việc thực hiện các gói hỗ trợ cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid – 19.

 

Thực hiện các chính sách an sinh xã hội và các gói hỗ trợ

 

Theo Bộ trưởng Bộ lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, năm 2021, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm ứng phó với dịch bệnh, phát triển kinh tế đi đôi với chăm lo phúc lợi, an sinh xã hội. Cụ thể:

 

(1) Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 268/NQ-UBTVQH15 ngày 06/8/2021 về việc cho phép Chính phủ ban hành Nghị quyết có một số nội dung khác với quy định của luật để đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch Covid – 19. Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 24/2021/QH15 ngày 28/7/2021 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 ngày 19/10/2021 về ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch Covid – 19.

 

(2) Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, có hiệu lực từ ngày 01/7/2021 .

 

(3) Quốc hội, Chính phủ và các địa phương đã ban hành nhiều chính sách khác nhằm hỗ trợ người dân, người lao đông và doanh nghiệp như: Cho phép tính vào chi phí các khoản chi ủng hộ, tài trợ (tiền, hiện vật) cho công tác phòng, chống dịch Covid – 19 khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp (Nghị định số 44/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 của Chính phủ); gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất (Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ); tiếp tục miễn giảm 30 loại phí, lệ phí trong năm 2021; Nghị quyết của Chính phủ về hỗ trợ giảm tiền điện; hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19 (Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 09/9/2021 của Chính phủ); một số địa phương thực hiện hỗ trợ giá nhà trọ và giảm giá tiền nước sinh hoạt cho các hộ gia đình;…

 

(4) Được sự đồng ý về chủ trương của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid – 19 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 68) và Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid – 19 từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (sau đây viết tắt là Nghị quyết 116). Những chính sách ban hành nhằm hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động, nhất là các đối tượng bị ảnh hưởng, tác động sâu bởi đại dịch, bao gồm cả người dân, người lao động có giao kết hợp đồng lao động và không có giao kết hợp đồng lao động, những đối tượng yếu thế, phụ nữ mang thai, trẻ em mồ côi cha, mẹ vì đại dịch,… cũng như những ngành, nghề bị ảnh hưởng nặng nề trong đại dịch như vận tải, hàng không, dịch vụ lưu trú, du lịch,…

 

Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP

 

Đánh giá kết quả đạt được của Nghị quyết số 68/NQ-CP, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, mà trực tiếp là Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo sát sao; các ngành, các địa phương vào cuộc triển khai quyết liệt. Việc hỗ trợ nhìn chung được triển khai nhanh chóng, kịp thời, công khai, minh bạch, đúng đối tượng.

 

Trên cơ sở rút kinh nghiệm từ việc triển khai các chính sách đã ban hành trước, chính sách hỗ trợ đã giảm tối đa các điều kiện, thủ tục, rút ngắn về thời gian hỗ trợ, tạo điều kiện để người sử dụng lao động và người lao động dễ dàng tiếp cận chính sách. Đặc biệt là đối với nhóm lao động tự do và đối tượng đặc thù bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch, Chính phủ quy định mức sàn tối thiểu và giao các địa phương chủ động quy định tiêu chí, tạo sự linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của địa phương, do vậy đã hỗ trợ được số lượng lớn các đối tượng thụ hưởng.

 

Nhiều địa phương đã chủ động sáng tạo và mở rộng các đối tượng ở các tỉnh/thành như: Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội, Đà Nẵng, Thanh Hóa, Quảng Nam, Cần Thơ,… đặc biệt, Thành phố Hồ Chí Minh chủ động triển khai 3 gói hỗ trợ thiết thực cho người dân thành nhiều đợt, triển khai hàng triệu “túi an sinh xã hội”, nhằm thực hiện mục tiêu đảm bảo người dân có mức sống tối thiểu, không bị thiếu đói, qua đó giúp người dân yên tâm thực hiện nguyên tắc “ai ở đâu, ở yên ở đó”;..

 

Bên cạnh đó, các bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ và các địa phương tích cực, chủ động triển khai thực hiện Nghị quyết số 68, Quyết định số 23; ban hành các Kế hoạch/Quyết định và văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện; Công tác thông tin, tuyên truyền, kiểm tra, giám sát được chú trọng và triển khai rộng rãi;….

 

Về một số tồn tại, hạn chế trong thực hiện cũng được Bộ trưởng nêu rõ như: Một bộ phận người dân, người lao động và người sử dụng lao động thuộc đối tượng thụ hưởng chưa được hưởng hoặc chậm được thụ hưởng; Nhìn chung, mức hỗ trợ còn thấp. Một số chính sách có tỷ lệ đạt thấp, như chính sách đối với đối tượng là người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, chính sách cho người sử dụng lao động vay tiền để trả lương ngừng việc và phục hồi sản xuất đạt thấp so với dự tính ban đầu; Việc triển khai thực hiện công tác xác lập hồ sơ, công tác hỗ trợ tại một số địa phương vẫn còn chậm. Một số địa phương gặp khó khăn về kinh phí, sợ sai, sợ trách nhiệm nên chậm hoặc chưa hỗ trợ đối tượng; cá biệt có nơi vẫn còn tình trạng lợi dụng dịch bệnh Covid – 19 để trục lợi, bị xem xét, xử lý theo quy định pháp luật.

 

Trên cơ sở phân tích rõ nguyên nhân, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đưa ra 6 nhóm giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế hiện nay:

 

(1) Trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 68/NQ-CP và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, mở rộng đối tượng thụ hưởng, tiếp tục đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục xác nhận, phê duyệt để người sử dụng lao động và người lao động được hỗ trợ kịp thời, đặc biệt là chính sách cho vay trả lương từ Ngân hàng Chính sách xã hội.

 

(2) Tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, kịp thời trả lời, hướng dẫn giải đáp các phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về các chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 68, Quyết định số 23.

 

(3) Rà soát, nắm chắc tình hình đời sống người dân, người lao động có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn. Giao trách nhiệm cho người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương trực tiếp chỉ đạo, chăm lo công tác bảo đảm an sinh xã hội. Bảo đảm không để người dân nào thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các nhu yếu phẩm thiết yếu. Rà soát người lang thang, cơ nhỡ và các đối tượng yếu thế

Nguồn: Báo doanhnghiepthuonghieu

Bạn cũng có thể thích