Trái phiếu doanh nghiệp cần sự minh bạch thông tin

Mua trái phiếu doanh nghiệp theo “phong trào”

Với hơn 10 năm hình thành và phát triển, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang ngày càng khẳng định vai trò góp phần cân đối kênh dẫn vốn trên thị trường tài chính, giúp các doanh nghiệp huy động vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, giảm dần sự phụ thuộc vào kênh tín dụng ngân hàng. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, trong hai năm liên tiếp 2019, 2020, tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành thành công vượt tổng giá trị trái phiếu Chính phủ phát hành trên thị trường.

Theo dữ liệu công bố mới nhất của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, 7 tháng đầu năm 2021, có 376 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước với tổng giá trị phát hành đạt 235.094 tỷ đồng, tăng gần 31% so với cùng kỳ năm 2020.

Trái phiếu doanh nghiệp cần sự minh bạch thông tin
Ảnh minh họa

Tuy nhiên, có một thực tế là hiện nay thị trường phát triển nóng kèm theo các bất cập, trong đó có các nhà đầu tư cá nhân đang mua trái phiếu chủ yếu theo “phong trào”, tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.

Một trong những rủi ro mà tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu – Chuyên gia ngân hàng đưa ra tại Tọa đàm “Trái phiếu doanh nghiêp – Cân bằng lợi ích nhà phát hành và nhà đầu tư”, hiện người dân, nhà đầu tư nhỏ lẻ đang tiếp cận trái phiếu doanh nghiệp vì họ thấy bóng dáng của ngân hàng đứng đằng sau trái phiếu. Tuy nhiên, chỉ số ít trái phiếu được ngân hàng bảo lãnh thanh toán, tức là nhà đầu tư mua trái phiếu của nhà phát hành, trong trường hợp rủi ro, nhà phát hành không trả được nợ, thì ngân hàng sẽ trả thay. Như vậy, phần lớn số trái phiếu còn lại chỉ được bảo lãnh phát hành. Nghĩa là, nếu phát hành không hết, ngân hàng sẽ cam kết mua toàn bộ số trái phiếu còn lại. Đồng nghĩa rủi ro với nhà đầu tư rất lớn nếu doanh nghiệp phát hành vỡ nợ.

Ngoài ra, lượng trái phiếu đang hiện đang lưu hành chủ yếu không có tài sản bảo đảm hoặc đảm bảo bằng cổ phiếu, trong khi cổ phiếu thì biến động theo thị trường. Trường hợp là tài sản bảo đảm khác thì nhà đầu tư cũng không có quyền lực để thu giữ tài sản bảo đảm như ngân hàng. Thậm chí, khi doanh nghiệp bị vỡ nợ, tài sản bảo đảm cũng sẽ phải trả theo thứ tự ưu tiên: Thuế cho Chính phủ; trả lương cho người lao động; trả nợ ngân hàng… gần cuối cùng mới đến người mua trái phiếu.

Vì thế trái phiếu doanh nghiệp được cảnh báo là “hiểm họa”, là “bom nổ chậm” và nhiều lần các cơ quan Nhà nước đã phải đưa ra cảnh báo cũng như quy định để siết chặt.

Ông Nguyễn Quang Thuân – Chủ tịch Hội đồng quản trị Fiin Ratings cho rằng, phát hành trái phiếu giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn để phát triển. Đặc biệt thời gian qua, nếu không có kênh huy động vốn này thì ngân hàng rất nặng gánh. Tính riêng giá trị trái phiếu đang lưu hành so với dư nợ ngân hàng đạt khoảng 12% nhưng tính trên phần dư nợ trung và dài hạn chiếm khoảng hơn 30%. Điều này cũng có thể hiểu là, nếu kênh trái phiếu này không có thì nhiều doanh nghiệp sẽ khốn đốn, hệ thống ngân hàng gánh nặng, vốn tự có ngân hàng không đáp ứng được…

“Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi trong hơn 10 năm qua thì thấy rằng, có một thực tế là hầu hết các nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp, theo tiêu chí có tài sản danh mục hơn 2 tỷ đồng, có khi không biết về chỉ số cơ bản, còn doanh nghiệp, tổ chức phát hành thì vàng thau lẫn lộn. Một số doanh nghiệp có tài sản thế chấp nhưng tài sản thế chấp không có giá trị nhiều lắm. Nếu đầu tư vào trái phiếu, niêm yết hay không niêm yết, ai dám đảm bảo niêm yết trả nợ tốt hơn?”, ông Thuân đặt dấu hỏi.

Cân bằng giữa rủi ro và lợi ích

Ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng Thư ký Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam, Quyền Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Chứng khoán VnDirect cho rằng, để đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường vốn nói chung, đòi hỏi sự phát triển đồng bộ của tất cả các thành phần tham gia vào sự vận hành của thị trường. Dù ở góc độ nào, cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư, đều phải đặt ra bài toán cân bằng giữa rủi ro và lợi ích.

Về góc độ pháp lý, tiến sĩ Nguyễn Đức Độ – Phó Viện trưởng Viện Kinh tế – Tài chính, Học viện Tài chính phân tích ba khía cạnh. Thứ nhất, với thị trường tài chính nói chung, trái phiếu nói riêng thì quan trọng nhất là công bằng và thực thi. Đang có sự bất cân đối về thông tin giữa người bán và người mua, nếu như người bán nắm nhiều thông tin hơn mà không công bố minh bạch thông tin để người mua biết thì giá cả có sự sai lệch. Người mua cảm thấy không nắm được chất lượng có tương xứng với số tiền họ bỏ ra thì họ không mua, như vậy thị trường trái phiếu sẽ không phát triển được.

Về phía cơ quan quản lý Nhà nước, luôn luôn phải quan sát, điều chỉnh chính sách kịp thời và hài hòa, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, không để xảy ra khủng hoảng, đứt gãy; bởi nếu quản lý quá chặt, thị trường không phát triển được, lỏng quá thì gây khủng hoảng.

Đối với doanh nghiệp, nếu lựa chọn phát hành ra công chúng sẽ tiếp cận được nhà đầu tư rộng hơn, nhưng phải chịu trách nhiệm lớn hơn như công bố thông tin minh bạch, có xếp hạng tín nhiệm, phải xin phép nhiều thủ tục phức tạp, rườm rà hơn. Tuy nhiên, nền tảng đầu tư rộng hơn, chi phí vốn thấp hơn. Còn nếu chọn hình thức phát hành trái phiếu riêng lẻ, cơ hội tiếp cận nhà đầu tư thấp hơn rất nhiều, chi phí vốn sẽ cao hơn. Vậy doanh nghiệp sẽ đánh đổi, chọn lựa điều gì?

Điều quan trọng là, khung pháp lý phải đảm bảo các thông tin trong quá trình vận hành của các bên đều chính xác, minh bạch. Doanh nghiệp nào công bố thông tin sai, thiếu minh bạch, thì hệ thống pháp lý phải có khả năng giám sát, kiểm tra. Đồng thời, thực thi pháp luật một cách chuẩn chỉ, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm, những hành vi cố tình bóp méo thông tin trên thị trường để lừa đảo, dẫn dắt các nhà đầu tư đi sai hướng.

Về góc độ pháp lý, tiến sĩ Nguyễn Đức Độ – Phó Viện trưởng Viện Kinh tế – Tài chính, Học viện Tài chính phân tích ba khía cạnh. Thứ nhất, với thị trường tài chính nói chung, trái phiếu nói riêng thì quan trọng nhất là công bằng và thực thi. Đang có sự bất cân đối về thông tin giữa người bán và người mua, nếu như người bán nắm nhiều thông tin hơn mà không công bố minh bạch thông tin để người mua biết thì giá cả có sự sai lệch. Người mua cảm thấy không nắm được chất lượng có tương xứng với số tiền họ bỏ ra thì họ không mua, như vậy thị trường trái phiếu sẽ không phát triển được.

Thứ hai, tính hiệu lực của quy định pháp lý. Nhà nước cần đảm bảo hiệu lực các quy định bằng cách thanh tra, giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm, nhưng quá trình này tốn nhiều chi phí. Thị trường càng phát triển, càng để ngỏ thì các vi phạm càng dễ xảy ra. Vì vậy, cần có chế tài xử phạt nghiêm minh, thậm chí có tính răn đe cao thì sản phẩm sẽ có độ an toàn cao, nhà đầu tư sẽ tham gia thị trường một cách tích cực hơn.

Thứ ba, khía cạnh hiệu quả thị trường, hiệu quả quy định pháp lý. Các quy định pháp lý một mặt phải nắm bắt được giao dịch của các chủ thể, nhưng mặt khác phải thông thoáng để thị trường phát triển.

Các chuyên gia kinh tế cũng khuyến cáo, nhà đầu tư cần hết sức lưu ý rằng: Lãi suất cao sẽ đi kèm với rủi ro cao. Do đó, phải hết sức thận trọng đánh giá kỹ về các rủi ro trước khi quyết định mua trái phiếu. Đồng thời, nhà đầu tư trái phiếu cũng cần lưu ý việc các tổ chức cung cấp dịch vụ như công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại phân phối trái phiếu doanh nghiệp không có nghĩa là các tổ chức này đảm bảo an toàn cho việc đầu tư vào doanh nghiệp. Các tổ chức này chỉ là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, hưởng phí dịch vụ từ doanh nghiệp phát hành mà không chịu trách nhiệm về việc doanh nghiệp có hoàn trả được gốc, lãi trái phiếu khi đến hạn hay không?./.

Bảo Thoa

Nguồn: Báo lao động thủ đô

Bạn cũng có thể thích