Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 2 tháng tăng 18,6% tạo đà phát triển

(Xây dựng) – Chiều 02/3 tại Hà Nội, sau phiên họp Chính phủ thường kỳ sáng cùng ngày, Văn phòng Chính phủ tổ chức buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 2/2024. Tình hình kinh tế xã hội tháng 2 và 2 tháng đầu năm tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, hầu hết các lĩnh vực đạt kết quả tốt hơn so với cùng kỳ năm 2023, tạo động lực mới, khí thế mới và đà phát triển thời gian tới.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 2 tháng tăng 18,6% tạo đà phát triển
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn – Người phát ngôn của Chính phủ (giữa), chủ trì họp báo Chính phủ tháng 2/2024 (Ảnh: Chính phủ).

Kinh tế – xã hội đạt nhiều kết quả tốt

Cụ thể, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn được bảo đảm. Cả 3 khu vực đều phát triển tốt: Nông nghiệp phát triển ổn định. Sản xuất công nghiệp tăng 5,7% so với cùng kỳ (cùng kỳ giảm 2,9%). Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,1%; khách quốc tế đạt trên 3 triệu lượt, tăng 68,7%.

Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 2 đạt 50,4 điểm (tháng 1 đạt 50,3 điểm), thể hiện mức độ cải thiện của ngành sản xuất, trong đó cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tăng.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 2 tháng tăng 18,6%, trong đó xuất khẩu tăng 19,2% (khu vực trong nước tăng 33,3%, cao hơn nhiều khu vực FDI (14,7%); nhập khẩu tăng 18%; xuất siêu 4,72 tỷ USD.

Thu Ngân sách Nhà nước 2 tháng ước đạt 23,5% dự toán năm, tăng 10,4%. An ninh năng lượng, an ninh lương thực được bảo đảm (xuất khẩu gạo 2 tháng đạt 912.000 tấn, kim ngạch 639 triệu USD); bảo đảm được cân đối cung cầu lao động.

Đầu tư phát triển tiếp tục đạt kết quả tích cực. Giải ngân vốn đầu tư công 2 tháng đạt 9,13% kế hoạch, cao hơn cùng kỳ (6,97%). Thu hút FDI đạt 4,29 tỷ USD, tăng 38,6%; vốn FDI thực hiện đạt 2,8 tỷ USD, tăng 9,8% so với cùng kỳ, thể hiện niềm tin của các nhà đầu tư vào tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước tăng lên. Phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng tăng. Trong 2 tháng đầu năm có trên 22.100 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 12,4% và có 19.000 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 4,4%; nâng tổng số doanh nghiệp gia nhập thị trường lên hơn 41.000 doanh nghiệp, tăng 8,5% so với cùng kỳ.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được chú trọng; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống nhân dân được cải thiện. Trong tháng 2, có 94,2% số hộ gia đình được đánh giá có thu nhập ổn định hoặc cao hơn cùng kỳ năm 2023 (93,9%).

Nhân dân cả nước, mọi người, mọi nhà đều vui Xuân đón Tết. Tổng số tiền hỗ trợ nhân dân đón Tết đạt gần 20 nghìn tỷ đồng; trong đó đã xuất gạo dự trữ 17.700 tấn gạo cho 693.000 nhân khẩu dịp Tết, giáp hạt; tặng quà Tết cho người có công khoảng 2.745 tỷ đồng; tặng quà Tết cho 13,9 triệu lượt đối tượng với tổng kinh phí 7,8 nghìn tỷ đồng. Đây là nỗ lực rất lớn của các bộ, ngành, địa phương trong công tác chăm lo, hỗ trợ nhân dân đón Tết khi điều kiện còn nhiều khó khăn.

Chính trị – xã hội ổn định, quốc phòng – an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.

Cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh; đưa ra truy tố, xét xử nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng lớn, góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được tập trung đẩy mạnh, hiệu quả, thiết thực; uy tín và vị thế đất nước tiếp tục được nâng lên.

Nhiều tổ chức, chuyên gia quốc tế tiếp tục đánh giá cao kết quả chỉ đạo điều hành và triển vọng của kinh tế Việt Nam, trong đó IMF dự báoViệt Nam nằm trong nhóm 20 nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Người phát ngôn của Chính phủ thông tin thêm, từ quan điểm, định hướng điều hành, Thủ tướng đã chỉ đạo một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm: Thực hiện nhất quán mục tiêu ưu tiên cho tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác.

Bảo đảm cung ứng đủ vốn tín dụng phục vụ nền kinh tế; giám sát chặt chẽ tình hình nợ xấu, bảo đảm an toàn hệ thống. Tiếp tục có biện pháp mạnh giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi Ngân sách Nhà nước.

Tăng cường quản lý giá cả, thị trường; bảo đảm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng. Kiên quyết không để thiếu điện, xăng dầu cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.

Tiếp tục làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới. Cụ thể: Về đầu tư, tạo thuận lợi thu hút, giải ngân đầu tư toàn xã hội; quyết liệt xử lý vướng mắc, tích cực hỗ trợ đẩy nhanh triển khai các dự án đầu tư; tăng cường xúc tiến, thu hút dự án FDI. Về xuất khẩu, củng cố các thị trường truyền thống, mở rộng các thị trường mới; thực hiện hiệu quả các FTA. Về tiêu dùng, đẩy mạnh khuyến mại, giảm giá, thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; có giải pháp mạnh mẽ thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế.

Đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới: Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, pháp luật; Thúc đẩy mạnh mẽ 6 vùng kinh tế xã hội; Tranh thủ các cơ hội mới từ sự dịch chuyển chuỗi cung ứng sản xuất, thương mại, đầu tư toàn cầu và khu vực; Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, các ngành, lĩnh vực mới như chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, Đề án 06 và các cơ sở dữ liệu quốc gia; Thu hút nguồn lực tài chính xanh, tín dụng xanh ưu đãi để phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng mới, Hydrogen.

Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, 03 Chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy nhanh phê duyệt quy hoạch. Khẩn trương hoàn thành việc lập, thẩm định, phê duyệt các quy hoạch còn lại và 5 quy hoạch vùng.

Tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Quyết liệt cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh. Tập trung triển khai thực hiện Đề án 06.

Tập trung phát triển mạnh các ngành, lĩnh vực chủ yếu. Về công nghiệp, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sản xuất công nghiệp, trong đó tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy công nghiệp chế biến chế tạo, công nghiệp phụ trợ; đẩy nhanh tiến độ các dự án quy mô lớn, công nghệ cao, có tính lan tỏa mạnh mẽ. Về nông nghiệp, thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp, nhất là lương thực, thực phẩm, phát triển công nghiệp chế biến nông sản; khẩn trương khắc phục “thẻ vàng” (IUU). Về dịch vụ, du lịch, tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế; đẩy mạnh thu hút du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ, xúc tiến du lịch các thị trường trọng điểm; thúc đẩy kinh tế di sản.

Tiếp tục xử lý các vấn đề tồn đọng, kéo dài

Chú trọng các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường; bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân. Chủ động rà soát, nắm bắt tình hình đời sống nhân dân, hỗ trợ gạo kịp thời trong dịp giáp hạt. Chuẩn bị thực hiện chế độ tiền lương mới từ ngày 1/7. Khẩn trương hoàn thiện, trình cấp có thẩm quyền về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa; chú trọng phát triển công nghiệp văn hóa…

Tăng cường quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Chuẩn bị tốt công tác chức tốt Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ; kỷ niệm Đại thắng mùa xuân, thống nhất đất nước.

Triển khai chu đáo, thực chất, hiệu quả các hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo cấp cao.

Tăng cường hiệu quả công tác thông tin, truyền thông, nhất là truyền thông chính sách; đấu tranh, phản bác các thông tin xấu, độc, chống phá Đảng, Nhà nước, xử lý nghiêm các sai phạm.

Từ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp nêu trên, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành, địa phương. Yêu cầu các đồng chí Bộ trưởng, Trưởng ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành với quyết tâm cao hơn, nỗ lực lớn hơn, phát huy hơn nữa vai trò người đứng đầu, phấn đấu thực hiện đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ được giao.

Bộ Giao thông Vận tải sắp mở rộng 5 tuyến cao tốc 2 làn xe

Cũng trong khuôn khổ cuộc họp báo, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Duy Lâm đã chia sẻ với báo chí về các giải pháp nâng cấp, hoàn chỉnh các tuyến cao tốc phân kỳ đầu tư 2 làn xe sau tai nạn nghiêm trọng tại cao tốc Cam Lộ – La Sơn hồi tháng 2.

Theo Thứ trưởng Nguyễn Duy Lâm, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo các cơ quan khẩn trương rà soát hoàn thiện kết cấu hạ tầng, phương án tổ chức giao thông để nâng cao an toàn khai thác tại các tuyến phân kỳ 4 làn xe hạn chế và 2 làn xe không có dải phân cách cứng, không có làn dừng khẩn cấp…

Bên cạnh đó, Bộ Giao thông Vận tải cũng rà soát tốc độ lưu thông trên cơ sở bảo đảm an toàn nhất, đồng thời phối hợp với Cảnh sát giao thông và Công an địa phương rà soát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Duy Lâm, Bộ Giao thông Vận tải đã chỉ đạo mở rộng, nâng cấp các tuyến cao tốc đã phân kỳ đầu tư, yêu cầu các Ban Quản lý dự án khẩn trương rà soát gửi báo cáo về Bộ Giao thông vận tải. Hiện nay, có 5 cao tốc phân kỳ 2 làn xe, sẽ được ưu tiên hoàn chỉnh trước; sau đó sẽ nâng cấp hoàn thiện với các tuyến 4 làn hạn chế.

Với tuyến cao tốc La Sơn – Hòa Liên, Thứ trưởng Nguyễn Duy Lâm cho hay: Bộ Giao thông Vận tải đã báo cáo, được cân đối bố trí nguồn vốn từ ngân sách Trung ương. Do đó, Bộ Giao thông Vận tải phấn đấu khởi công mở rộng cuối năm 2024 và sẽ hoàn thành vào năm 2025-2026.

Đối với tuyến cao tốc Hòa Lạc – Hòa Bình, Thủ tướng Chính phủ giao UBND tỉnh Hòa Bình làm cơ quan chủ quản, đầu tư theo hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư (BOT). Hiện tại, tỉnh Hòa Bình đã chấp thuận cho nhà đầu tư mở rộng dự án.

Ngoài ra, tuyến Yên Bái – Lào Cai thuộc cao tốc Nội Bài – Lào Cai do Tổng công ty đầu tư và quản lý đường cao tốc Việt Nam (VEC) làm chủ đầu tư, đã có phương án mở rộng lên 4 làn xe.

Riêng tuyến Thái Nguyên – Chợ Mới và Cam Lộ – La Sơn, Bộ Giao thông Vận tải đang yêu cầu các ban quản lý dự án báo cáo khẩn trương, đề xuất phương án về vốn.

Tại cuộc họp, Thứ trưởng Nguyễn Duy Lâm nhấn mạnh thêm rằng: Các tuyến phân kỳ 4 làn xe hạn chế, không có làn dừng khẩn cấp, Bộ Giao thông Vận tải sẽ tiếp tục rà soát báo cáo các cấp có thẩm quyền để phân bổ nguồn vốn, triển khai hoàn thiện trong thời gian tới.

Nguồn: Báo xây dựng

Bạn cũng có thể thích