Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam

Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam

MTĐT –  Thứ hai, 22/11/2021 10:40 (GMT+7)

Từ xưa, phong thủy là kinh nghiệm chọn đất cất nhà (Dương phần) hay làm mồ mả (Âm phần).

Từ xưa, phong thủy là kinh nghiệm chọn đất cất nhà (Dương phần) hay làm mồ mả (Âm phần). Một số người cho rằng đó là mê tín dị đoan nhưng một số khác thì không. Tuy nhiên, cho đến ngày nay phong thủy vẫn còn ứng dụng rộng rãi trong xã hội. Như vậy, vấn đề đặt ra là: Những yếu tố của phong thủy truyền thống được áp dụng trong một số công trình kiến trúc cổ có được gọi là khoa học không? Bài viết sau trình bày một số vấn đề về Phong thủy như Âm dương, Tam tài, Ngũ hành và ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ để qua đó thấy được tính khoa học của nó.

1. Sơ lược về Âm – Dương

Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam - Tạp chí Kiến Trúc
Âm – Dương là tổng hợp của hai cặp Đất – Trời và Mẹ – Cha được thể hiện rõ qua mô hình Bát quái tiên thiên và Bát quái hậu thiên

Âm – Dương trong chữ Hán là 陰 陽, phiên âm là /yīn yáng/. Theo GS.TS. Trần Ngọc Thêm, trong “Cơ sở Văn hóa Việt Nam”, Âm có phát âm từ các ngôn ngữ Đông Nam Á cổ đại là /yīn/, bao gồm các từ: Yana, ina (có nghĩa là mẹ); Dương /yáng/ (có nghĩa là giàng, trời). Mẹ là một thành tố trong cặp đối lập Mẹ – Cha, trời trong cặp đối lập Đất – Trời. Hai cặp Mẹ – Cha và Đất – Trời là hai nhân tố quan trọng quá trình sinh sản trong quá trình sản xuất nông nghiệp ở phương Nam, quê hương của cây lúa nước, là quá trình sản sinh ra con người và mùa màng. Đây cũng là biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam. Người Việt có tư duy tổng hợp nên tập hợp lại thành một cặp đối lập: Mẹ – Trời: Âm – Dương, để đại diện cho tất cả các cặp đối lập khác trong cuộc sống, chẳng hạn như: Nữ – nam, phải – trái, trắng – đen, đêm – ngày…

Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam - Tạp chí Kiến Trúc
Nhà ba gian hai chái truyền thống với gian giữa là gian thờ cúng tổ tiên, hai bên đối xứng qua gian giữa [Nguồn: Internet].
Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam - Tạp chí Kiến Trúc
Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam - Tạp chí Kiến Trúc

Một trong những cơ sở để khẳng định điều trên là khi tìm hiểu về Bát quái, chúng ta có thể thấy rất rõ hai cặp Mẹ – Cha và Đất – Trời trong hai quẻ thuần Dương và thuần Âm là Càn và Khôn. Bát quái tiên thiên, tiên truyền do vua Phục Hy làm ra, một ông vua chỉ có trong truyền thuyết, mô tả một trật tự tự nhiên. Trong đó, Càn là trời, Khôn là đất. Còn Bát quái hậu thiên là do Văn vương phát triển, nó mô tả một trật tự xã hội. Trong đó, Càn là cha, Khôn là mẹ.

Quan sát trong thực tế, người ta phát hiện ra quy luật Âm Dương, có nội dung cơ bản như sau: Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, Âm và Dương luôn chuyển hóa cho nhau, Âm thịnh thì Dương suy, Dương thịnh thì Âm suy, Âm cực thì sinh Dương và Dương cực thì sinh Âm…

Quy luật trên cũng thường thấy trong Triết lý Sống của người Việt, một triết lý sống bình quân. Người ta ít khi để một chuyện gì xảy ra đến mức cực đại để rồi nó thay đổi bản chất. Trong kiến trúc nhà cửa, cung điện được bố trí đối xứng qua gian giữa, gian thờ cúng tổ tiên, gian dành cho vua chúa, để hai bên, một bên là Nam, một bên là Nữ; một bên là Ông, một bên là Bà…

2. Tam tài

Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam - Tạp chí Kiến Trúc
Sự hình thành Tam tài

Tam tài là tổng hợp của ba cặp âm dương có chung yếu tố. Ví dụ như trong bộ ba Trời – Đất – Người bao gồm ba cặp Trời (+) – Đất (–), Người (–) – Trời (+) và Người (+) – Đất (–). Trong đó, Trời là yếu tố luôn dương, Đất là yếu tố luôn âm, Người có lúc âm, có lúc dương. Như vậy, tính chất âm hay dương không phải là yếu tố bất biến mà phụ thuộc vào đối tượng so sánh và tiêu chí so sánh. Tam tài được thấy qua các hiện tượng trong xã hội như những mô hình 3 yếu tố: Nhà 3 gian, nhà có số gian lẻ, con người – không gian – thời gian, cha – mẹ – con, Sơn Tinh – Thủy Tinh – Mị Nương, trầu – cau – vôi, ba ông táo…

3. Ngũ hành

Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam - Tạp chí Kiến Trúc
Mô hình Ngũ hành

Ngũ hành được hình thành do tổng hợp 2 bộ Tam tài, từ việc chọn đất cất nhà của người xưa: (1) Chọn đất (Thổ) là nơi có nước (Thủy) để sinh hoạt và là nơi khô ráo để sinh sống, nấu nướng (Hỏa); (2) Chọn đất (Thổ) là nơi sao cho có thể trồng trọt được (cây cối – Mộc) và có dụng cụ thu hoạch (dụng cụ bằng kim loại – Kim). Như vậy, có hai bộ Tam tài: Thủy – Thổ – Hỏa và Mộc – Thổ – Kim. Trong đó, con người là trung tâm của việc chọn đất, con người ở trên đất, do vậy, chúng ta có mô hình đất (Thổ) ở trung tâm, bốn yếu tố còn lại ở xung quanh.

Hành Hỏa ấm áp ở phương Nam, là nơi tránh rét của loài chim Lạc Hồng. Hành Hỏa đại diện cho phương Nam, chim Phượng, màu đỏ… Hành Thủy lạnh lẽo ở phía Bắc, là quê hương của con rùa (Quy). Qua việc các công trình cổ đều quay mặt về phía Nam và qua thành ngữ “tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ” cho thấy bên trái là con Rồng (Long) – hành Mộc – phương Đông; bên phải là con Hổ (Lân) – hành Kim – phương Tây. Long, Lân, Quy, Phượng – Tứ Linh là đề tài trang trí rất phổ biến.

4. Ứng dụng Ngũ hành trong việc chọn đất xây dựng công trình

Người Việt có triết lý sống bình quân, luôn sống trong việc cân bằng, hài hòa Âm – Dương. Như vậy, khi bố trí nhà cửa, cung điện luôn giữ nguyên tắc “cân bằng Âm – Dương”, đó là “Minh đường tụ thủy, Hậu chẩm tựa sơn” và “Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ”.

Các công trình thường quay về phía Nam, phía trước phải có “Minh đường tụ thủy”. Ở phía Nam là hành Hỏa, đối lập với Hỏa là Thủy, như vậy để cân bằng Âm – Dương thì chỗ này phải có sông hồ rộng rãi thoáng mát, có tầm nhìn tốt. Yếu tố này luôn cần cho bất kỳ công trình nào, ngay thời nay cũng vậy; Sông, hồ là nơi cung cấp hơi ẩm, làm mát không khí… Có được một nơi để cất nhà quay mặt ra sông là điều mơ ước của rất nhiều người, nhưng đôi khi không có được thì người ta làm thêm hồ nước nhân tạo phía trước.

“Hậu chẩm tựa sơn”: Phía Bắc là hành Thủy, Thủy có thể hiểu là đầm, hồ. Đối lập với đầm, hồ (trũng xuống) là Sơn (nhô lên). Đây cũng là dựa trên nguyên tắc hài hòa Âm – Dương. Bên cạnh đó, phía sau cao ráo hay có núi là nơi “dựa lưng”, “an tâm nhìn về phía trước” là một yếu tố rất cần thiết. Ngoài ra, đó còn là nơi che gió mùa Đông Bắc lạnh khô, một loại gió chướng hay gió độc, không tốt cho sức khoẻ, tràn về. “Tả Thanh Long”: Phía Đông là hành Mộc, đối lập là Thổ (Mộc khắc Thổ), Thổ có thể hiểu là đất, là đường đi. Bố trí đường đi, hình dáng ngoằn ngoèo giống con Rồng, là nơi cho Rồng bay lượn… Bên cạnh đó, bố trí đường đi để liên hệ toàn công trình, có nhiều chỗ trống để đón nắng sớm, gió mát.

“Hữu Bạch Hổ”: Phía Tây là hành Kim, đối lập là Mộc, bố trí Mộc để cân bằng Âm – Dương. Mộc có thể hiểu là cây cối, rừng cây làm chỗ trú ẩn của Hổ. Ngoài ra, trồng cây để che nắng hướng Tây là giải pháp rất khoa học và hợp lý.

5. Một số ứng dụng của Ngũ Hành

5.1. Thăng Long – Hà Nội

Trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn có đoạn: “Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện nghi núi sông sau trước.” Như vậy, Nhà vua đã xác định Thăng Long là nơi có “Tả thanh long, hữu bạch hổ” (“thế rồng cuộn hổ ngồi”), trước là sông, sau là núi (“núi sông sau trước”) đảm bảo phía trước có “Minh đường tụ thủy”, phía sau là “Hậu chẩm tựa sơn”.

5.2. Kinh thành Huế

Đối với Kinh thành Huế, nơi này hội đủ các yếu tố, chẳng hạn như bên trái có cồn Hến làm Tả Thanh Long, bên phải có cồn Dã Viên là Hữu Bạch Hổ, phía trước có sông Hương làm Minh đường, phía sau Hậu chẩm là khu vực hậu cần trong một thành Vaurban rất vững chắc.

Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam - Tạp chí Kiến Trúc
Ngũ Hành và ứng dụng của Ngũ Hành ở Kinh thành Huế.

5.3. Lăng Khải Định

Ở Lăng Khải Định cũng được áp dụng phong thủy một cách rất triệt để. Vua chọn triền núi Châu Chữ làm vị trí để xây cất lăng mộ. Ở vị trí này, lấy một quả đồi thấp ở phía trước làm tiền án, có khe Châu Ê chảy từ trái qua phải làm “Thủy tụ”, gọi là “Minh đường”, lấy núi Chóp Vung và Kim Sơn làm “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”.

Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam - Tạp chí Kiến Trúc
Các yếu tố ứng dụng Ngũ Hành ở Lăng Khải Định
Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam - Tạp chí Kiến Trúc
Tính khoa học của việc ứng dụng phong thủy trong một số công trình kiến trúc cổ Việt Nam - Tạp chí Kiến Trúc

Kết luận: 

Như vậy, qua nội dung trên, chúng ta có thể thấy rằng phong thủy truyền thống trong kiến trúc hầu hết yếu tố đều là những phát hiện, những giải thích rất khoa học của người xưa về tự nhiên và xã hội, về quan hệ của những yếu tố nhân tạo trong môi trường tự nhiên, đặc biệt là mối quan hệ giữa kiến trúc với môi trường. Có thể trong thời cổ đại, tính khoa học đó, kiến thức thời đó không thể so sánh với khoa học bây giờ, nhưng đã thể hiện được sự uyên thâm của nó so với kiến thức của những người bình thường khác trong xã hội lúc bấy giờ. Như vậy, vấn đề của chúng ta hôm nay là phân biệt được nội dung nào là phong thủy truyền thống và nội dung nào là lợi dụng phong thủy truyền thống để trục lợi để mà tránh, mà phê phán.

THS.KTS Ngô Hồng Năng Phụ trách khoa Kiến trúc – ĐH Xây dựng miền Tây (Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 09-2021)

Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị

Bạn cũng có thể thích