Tiền gửi tiết kiệm tăng, doanh nghiệp sao “khát” vốn?
“Tắc” nguồn vốn tín dụng
Hai năm qua là thời gian khó khăn với Hợp tác xã (HTX) sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ công nghệ cao Cuối Quý (xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng, Hà Nội). Dịch bệnh khiến sản lượng nông sản tiêu thụ giảm, cùng với đó, biến đổi khí hậu ngày càng tác động nên HTX chuyển hướng trồng thêm nho hạ đen cho năng suất cao, đầu ra tiêu thụ ổn định hơn. Chính vì thế, bà Đặng Thị Cuối – Giám đốc HTX cho biết, đây là giai đoạn HTX cần vốn để duy trì và mở rộng sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp rất khó tiếp cận vốn vay ưu đãi, hoặc là thiếu điều kiện bảo lãnh, hoặc lãi suất cao. Vay tín chấp qua các đoàn thể có lãi suất ưu đãi nhưng số tiền giải ngân không nhiều.
Trang trại trồng rau chất lượng cao của HTX sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ công nghệ cao Cuối Quý. Ảnh: H.Phong |
Tương tự, là đơn vị được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chỉ định là tác nhân chính xây dựng mô hình chuỗi sản xuất và cung ứng thực phẩm sạch Organic Green, nhưng theo ông Nguyễn Văn Chữ – Giám đốc Công ty TNHH thực phẩm sạch Organic Green, xây dựng chuỗi thực phẩm đòi hỏi chi phí lớn, gấp 5 lần doanh nghiệp cùng lĩnh vực. Cụ thể, để chủ động nguồn thức ăn chăn nuôi sạch, cần xây dựng nhà máy sản xuất với kinh phí đầu tư từ 35-50 tỷ đồng; nhà máy giết mổ gia súc đạt chuẩn cần 20 tỷ đồng; chưa kể chi phí đầu tư cho trang trại chuyên nghiệp…Thế nhưng, đến nay doanh nghiệp này chưa tiếp cận vốn vay ưu đãi mà phải vay vốn thế chấp bằng tài sản (nhà cửa) của mình. “Năm nay, room tín dụng bị thắt chặt nên nguồn vốn vay càng thắt chặt hơn. Tôi lấy ví dụ, trước thế chấp nhà cửa vay được 5 tỷ đồng thì nay chỉ còn được 3 tỷ đồng”, ông Nguyễn Văn Chữ nói.
Phát biểu tại Diễn đàn kết nối nông sản 970 tổ chức mới đây tại Hà Nội, ông Nguyễn Tiến Định – đại diện Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: Cả nước có 18.795 HTX nông nghiệp, chiếm 70% tổng số các loại hình HTX cả nước, thu hút 3,2 triệu thành viên. Trong đó, có khoảng 2.000 HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hơn 1.000 HTX là chủ thể OCOP (chương trình Mỗi xã một sản phẩm), 37% số HTX tham gia liên kết tiêu thụ nông sản cho bà con nông dân…Về việc tiếp cận tín dụng, chỉ có khoảng 7.000 HTX được hỗ trợ quỹ tín dụng, 3,7% được tiếp cận tín dụng hàng năm. Tổng dư nợ đến năm 2021 của HTX nông nghiệp đạt 6.000 tỷ đồng. Theo ông Nguyễn Tiến Định, đây là con số khiêm tốn, tính ra, mỗi năm có khoảng 45 HTX nông nghiệp được ưu đãi tín dụng từ quỹ phát triển.
Khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ưu đãi của hệ thống ngân hàng thương mại, ông Nguyễn Tiến Định nhấn mạnh đến những hệ luỵ cản trở sự phát triển nông nghiệp. Đó là, các HTX không có tiềm lực kinh tế để được khuyến khích đầu tư chế biến nên chỉ có thể tập trung thu gom; năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, tạo áp lực cho doanh nghiệp liên kết hoặc hạn chế sự hình thành và phát triển chuỗi liên kết.
Qua tìm hiểu, không chỉ riêng với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, ngay cả lĩnh vực bất động sản cũng gặp khó khăn với dòng vốn tín dụng. Ông Nguyễn Văn Đính – Chủ tịch Hội Môi giới bất động sản Việt Nam cho biết, phía ngân hàng nhiều lần khẳng định không siết vốn tín dụng hay ngăn cản vốn tín dụng vào bất động sản. Nhưng trên thực tế các thành viên của Hiệp hội bất động sản hầu hết lại “than” không tiếp cận được vốn vay trong giai đoạn vừa qua. Không chỉ doanh nghiệp, các khách hàng mua nhà ở tiếp cận vốn cũng cực kỳ khó khăn.
Ông Đính nhắc lại, tại Hội nghị Phát triển thị trường bất động sản an toàn, lành mạnh, bền vững diễn ra hồi giữa tháng 7, Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định “không siết chặt tín dụng bất động sản một cách bất hợp lý”, cần khơi thông nguồn vốn. “Đó là động viên rất lớn từ Thủ tướng đối với thị trường, làm ấm lòng doanh nghiệp”, ông Đính nhấn mạnh. Ông hy vọng trong giai đoạn từ giờ đến cuối năm các nút thắt thị trường sẽ được tháo gỡ, ngân hàng đẩy mạnh phát triển tín dụng cho những dự án tốt, phù hợp, đẩy mạnh phát triển đô thị, nhà ở cho cộng đồng và tháo gỡ cho khách hàng…
Doanh nghiệp phải vay nóng” để kinh doanh
Trong khi Ngân hàng Nhà nước chưa có động thái nới lỏng room tín dụng, các ngân hàng vẫn cố gắng “xoay xở” trong dư địa còn lại và doanh nghiệp thì đang gặp khó khăn khi tiếp cận vốn ngân hàng. Ông Lê Ngọc Nam – Tổng Giám đốc Công ty X.E Việt Nam cho biết, việc vay vốn hiện nay khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp kinh doanh sản xuất do cạn room. “Trong lúc kinh tế vào giai đoạn phục hồi, doanh nghiệp cần vốn thì lại không tiếp cận được. Đây là một nghịch lý”, ông Nam nêu thực tế. Ông Nam kiến nghị Ngân hàng Nhà nước vẫn phải mở room và cứu doanh nghiệp. Nếu không, rất khó cho các doanh nghiệp, họ thực sự cần vốn, nhất là sau đại dịch bắt đầu đi vào ổn định, phục hồi sản xuất kinh doanh.
Dù lý thuyết cung- cầu tiền tệ có như thế nào thì cũng không thể phủ nhận thực tế: Nền kinh tế dần hồi phục, thị trường vốn bất động sản bị siết chặt, thị trường chứng khoán cũng bị quản lý chặt hơn, ngân hàng thì “nới room”lãi suất tiền gửi theo hướng tăng, dẫn đến việc trong vòng 3-4 tháng qua, lượng tiền người dân gửi vào ngân hàng rất lớn, thế nhưng nhiều doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa, các HTX lại đang “khát vốn”. Điển hình, theo thống kê của Cục Đăng ký kinh doanh, trong 7 tháng đầu năm nay có 94.575 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, phần lớn là các doanh nghiệp lựa chọn hình thức tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn (56.014 doanh nghiệp, chiếm 59,2% tổng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 7 tháng đầu năm nay). Đây là vấn đề “nóng” mà các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải giải quyết. |
Trao đổi với phóng viên – nhiều công ty du lịch cho biết, hiện ngành này đã có sự phục hồi tốt với cả thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình phục hồi, các công ty vẫn gặp khó khăn về vốn.
Bà Phạm Phương Anh, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Việt cho hay: Để có thể cầm cự và vượt qua dịch bệnh, công ty phải dùng tài sản cá nhân để thế chấp vay vốn ngân hàng. Thậm chí, có thời điểm công ty phải vay “nóng” để giải quyết cho những khoản chi cần thanh toán tiền mặt gấp. Nhờ đó, công ty mới giữ được nhân sự và vận hành một cách trơn tru khi du lịch bước sang giai đoạn phục hồi.
Tương tự, ông Nguyễn Khoa Luân – Giám đốc Công ty Ảnh Việt cũng nêu khó khăn về nguồn vốn. Theo đó, hiện công ty có nhu cầu vay vốn để đầu tư phương tiện mới, cụ thể là xe buýt hai tầng mui trần và xe một tầng phục vụ du khách. Thế nhưng, “gõ cửa” vài ngân hàng đều bị từ chối với lý do đã hết room tín dụng, cộng thêm với điều kiện vay quá khó khăn như phải chứng minh hoạt động kinh doanh có lãi trong hai năm gần nhất. Đại diện nhiều công ty du lịch khác cũng nêu rõ tài chính là đòn bẩy quan trọng đối với hoạt động doanh nghiệp, thúc đẩy phục hồi sau đại dịch. Thế nhưng đến nay, họ không thể tiếp cận gói hỗ trợ lãi suất 2% vì có nhiều rào cản. Ví dụ, các ngân hàng yêu cầu muốn vay mới phải trả nợ cũ, phải có tài sản thế chấp nhưng trong hai năm dịch đã thế chấp tài sản hết rồi. Hơn nữa, các công ty lữ hành chủ yếu nhờ vào nhân lực, tri thức, thương hiệu,… mà các yếu tố này không thế chấp được.
Siết tăng trưởng tín dụng, có “trị” đúng bệnh?
Lãnh đạo một số hiệp hội doanh nghiệp phản ánh rằng, nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn khi hạn mức hạn hẹp. Trong khi đó, nhu cầu vốn của doanh nghiệp càng về cuối năm càng lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh giá nguyên vật liệu gia tăng từng ngày, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp lại càng “nóng” hơn bao giờ hết. Một số chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh phục hồi nền kinh tế sau đại dịch, doanh nghiệp rất “khát” vốn. Do đó, cần đáp ứng vốn cho doanh nghiệp thời điểm này để không bỏ lỡ cơ hội phục hồi nền kinh tế.
Lãi suất huy động tăng, nhưng ngân hàng “mòn mỏi” chờ cấp thêm hạn mức tín dụng. Ảnh minh họa: H.Phong |
Theo tìm hiểu, sau khi giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng, sau nửa năm Ngân hàng Nhà nước sẽ họp, xem xét và có điều chỉnh chỉ tiêu này theo tình hình kinh tế. Vừa qua, hầu hết các ngân hàng đều kiến nghị được nới hạn mức tín dụng để cung cấp vốn cho doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế bước vào giai đoạn phục hồi hậu Covid-19. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có động thái nào. Điều này khiến nhiều khách hàng phải “bùi ngùi” chờ đợi hoặc nhận được lời từ chối thẳng thừng.
Tại cuộc họp với Thủ tướng Chính phủ để bàn về việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững, diễn ra gần đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, cơ quan quản lý vẫn giữ mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14% cả năm 2022, dù nhận được một số kiến nghị về việc “nới” chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng lên khoảng 15-16%.
Lý giải điều này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết tăng trưởng tín dụng luỹ kế từ đầu năm tới 26/7/2022 là 9,42%. Con số này trong giai đoạn từ cuối tháng 7/2021 tới 26/7/2022 là 17%. Ngược lại, huy động vốn của hệ thống ngân hàng luỹ kế 7 tháng đầu năm ước đạt 4,21%. Ngoài ra, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam dựa trên cách tính GDP mới ở mức 154%, tỷ lệ này đã vượt mức 180% so với cách tính GDP cũ. Những con số này, theo bà Hồng, đều ở mức cao nhất thế giới.
Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng có chỉ đạo về việc tích cực phân bổ dòng tiền vào các ngành, lĩnh vực có vai trò thúc đẩy phục hồi kinh tế trong nửa cuối năm 2022 như đầu tư công. Như vậy, một lượng tiền lớn sẽ được đưa vào nền kinh tế thời gian tới. Với bối cảnh trên, cộng thêm áp lực lạm phát gia tăng thì không thể chủ quan. Trước mắt, Ngân hàng Nhà nước vẫn điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở tăng trưởng tín dụng cả năm ở mức 14%.
Đáng chú ý, theo Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng, nếu “nới”hạn mức tín dụng thì các ngân hàng phải “chạy đua” huy động nguồn vốn để có nguồn cho vay, gây cuộc đua lãi suất tương tự giai đoạn 2010-2011. Điều này không phù hợp với mục tiêu ổn định lãi suất, tỷ giá và thị trường ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. Trong khi đó, với lĩnh vực bất động sản, việc “nới”hạn mức tín dụng sẽ làm gia tăng rủi ro trung – dài hạn với hệ thống ngân hàng. Để tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn, Thống đốc cho rằng, doanh nghiệp và nhà đầu tư bất động sản có thể huy động vốn từ nhiều kênh khác nhau gồm đầu tư nước ngoài, chứng khoán, trái phiếu.
Tuy nhiên, một chuyên gia về kinh tế băn khoăn, khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng không chỉ với bất động sản mà còn nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác. Thêm nữa, câu hỏi đặt ra vì sao Ngân hàng Nhà nước vẫn kiên định tăng trưởng tín dụng 14% cho năm nay, chỉ nhỉnh hơn một chút so với con số năm ngoái. Trong khi năm ngoái cả nước khó khăn vì đại dịch, còn năm nay thì bước vào giai đoạn hoàn toàn mới.
Trao đổi với báo chí, GS. Hoàng Văn Cường (Đại học Kinh tế Quốc dân) cho rằng, lạm phát đang là thách thức lớn với nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, theo vị chuyên gia này, việc giới hạn cung tiền thời điểm này để “chữa” lạm phát là chưa phù hợp. Cụ thể, theo ông Cường, ở Việt Nam, 6 tháng đầu năm nay chỉ số tiêu dùng tăng nhưng khá thấp, với mức 2,45%. Nguyên nhân do Việt Nam chủ yếu hỗ trợ thông qua giãn hoãn thuế, giãn các khoản vay và không hỗ trợ tiền mặt một cách ồ ạt đã giảm nguy cơ lạm phát. Chưa kể lương thực, thực phẩm – cấu thành lớn trong tỉ trọng hàng hóa – Việt Nam đang tự cung tự cấp và bình ổn giá tốt.
Cũng theo ông Cường, có thể thấy Việt Nam không xảy ra tình trạng dư tiền mặt, dư cung tiền, lạm phát chủ yếu do nhập khẩu, đặc biệt là giá xăng dầu tăng quá cao. Trước tình cảnh đó, ông Cường cho rằng, giải pháp kiểm soát lạm phát ở Việt Nam sẽ khác so với các nước.Vấn đề ở Việt Nam không phải là chăm chăm vào cung tiền, giải pháp kiểm soát ở Việt Nam nên hướng vào giảm chi phí đầu vào, giảm giá xăng dầu, đồng thời kiểm soát nguồn cung ổn định giá trong nước, từ lương thực thực phẩm, hàng hóa thiết yếu đến giá dịch vụ mà Nhà nước có thể kiểm soát được như điện, nước, viễn thông, y tế, giáo dục…. làm giảm tác động chi phí.
Việc kéo giảm chi phí đầu vào, theo ông Cường, đó mới là giải pháp trọng tâm kiểm soát lạm phát lúc này ở Việt Nam, chứ không phải trọng tâm là giảm cung tiền tệ. Đặc biệt, trong bối cảnh phục hồi nền kinh tế sau đại dịch, doanh nghiệp rất khát vốn. Cần đáp ứng vốn cho doanh nghiệp thời điểm này để không bỏ lỡ cơ hội phục hồi nền kinh tế trong nước. Chính vì thế, nếu chúng ta hạn chế tăng trưởng tín dụng, hạn chế chiến lược kích cầu thì sẽ gây khó cho nền kinh tế…
Theo thống kê của Cục Đăng ký kinh doanh, trong 7 tháng đầu năm nay có 94.575 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, phần lớn là các doanh nghiệp lựa chọn hình thức tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn (56.014 doanh nghiệp, chiếm 59,2% tổng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 7 tháng đầu năm nay).
Số lượng doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh trong 7 tháng đầu năm nay là 56.014 doanh nghiệp, tăng 39,2% so với cùng kỳ năm 2021. Phần lớn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh trong 7 tháng đầu năm nay có thời gian hoạt động ngắn (0-5 năm) với 27.516 doanh nghiệp (chiếm 49,1%), tập trung chủ yếu ở quy mô vốn 0-10 tỷ đồng với 50.260 doanh nghiệp (chiếm 89,7%, tăng 37,9% so với cùng kỳ năm 2021).
Trong 7 tháng đầu năm nay, số doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể là 28.206 doanh nghiệp, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2021. So với cùng kỳ năm 2021, số lượng các doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể giảm ở 9/17 lĩnh vực và tập trung chủ yếu ở quy mô vốn 0-10 tỷ đồng với 24.890 doanh nghiệp (chiếm 88,2%, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm 2021). Qua tìm hiểu, nhiều doanh nghiệp chia sẻ, khó khăn nhất hiện nay với họ chính là thiếu vốn. Vay ngân hàng không dễ dàng, trong khi chi phí đầu vào sản xuất đã tăng cao 30-50% “đè” gánh nặng lên doanh nghiệp giai đoạn phục hồi./.
Nguồn: Báo lao động thủ đô