Thực trạng phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn và tái chế rác thải tại Việt Nam

Thực trạng phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn và tái chế rác thải tại Việt Nam

Theo số liệu ước tính mỗi ngày cả nước phát sinh khoảng hơn 60.000 tấn, tuy nhiên, chỉ có khoảng 15% lượng rác thải thu gom được tái chế hoặc tái sử dụng. Số còn lại bị chôn trong các bãi chôn lấp rác, thải ra nguồn nước hoặc đốt tiêu hủy thông thường.

Thực trạng phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn và công nghệ tái chế rác thải tại Việt Nam

Tổng quan về quản lý chất thải rắn sinh hoạt Việt Nam

Theo “Báo cáo hiện trạng Môi trường Quốc gia 2016-2020” do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố cuối năm 2021, lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) vẫn tiếp tục gia tăng trên phạm vi cả nước, trung bình 64.658 tấn/ngày.

Lượng CTRSH ước tính ở các đô thị tăng trung bình 10-16%/năm (với tổng khối lượng phát sinh 35.624 tấn/ngày, hơn 13 triệu tấn/năm, chiếm tới 55% tổng khối lượng CTRSH phát sinh của cả nước). Cũng theo kết quả thống kê giai đoạn 2016-2019, tốc độ thu gom và xử lý CTRSH đô thị tăng trung bình 2%/năm, phần lớn chỉ được xử lý bằng hình thức chôn lấp thô sơ.

Tăng trưởng kinh tế phần nào thay đổi phương cách tiêu dùng của xã hội, từ đây dẫn tới sự thay đổi trong khối lượng và thành phần chất thải rắn sinh hoạt phát sinh. Các nhà quản lý đã nhận biết sự xuất hiện nhiều thành phần chất thải rắn độc hại và khó phân hủy trong chất thải rắn sinh hoạt đô thị Việt Nam.

Thực trạng phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn và công nghệ tái chế rác thải tại Việt Nam

Tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị của một số thành phố Việt Nam

Thực trạng phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn và công nghệ tái chế rác thải tại Việt Nam
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Quốc gia năm 2019, Chuyên đề: Chất thải rắn – Bộ Tài nguyên và Môi trường 2019

Thực trạng công tác phân loại rác tại nguồn tại các tỉnh, thành phố Việt Nam

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và tác động của quá trình đô thị hóa, lượng chất thải rắn phát sinh của Việt Nam có tốc độ tăng khoảng 10% mỗi năm. Theo số liệu ước tính mỗi ngày cả nước phát sinh khoảng hơn 60.000 tấn, tuy nhiên, chỉ có khoảng 15% lượng rác thải thu gom được tái chế hoặc tái sử dụng. Số còn lại bị chôn trong các bãi chôn lấp rác, thải ra nguồn nước hoặc đốt tiêu hủy thông thường (không thu hồi năng lượng). Gần đây đã có một số nhà máy đốt rác thu hồi năng lượng hay còn gọi là nhà máy điện rác như ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ… Tuy nhiên so với khối lượng rác phát sinh toàn quốc thì con số này rất không đáng kể.

Phân loại rác tại nguồn (PLRTN) nhằm tách rác có giá trị tái chế tại nguồn, góp phần tạo nguồn nguyên liệu cho hoạt động tái chế, giảm khối lượng chất thải rắn sinh hoạt được chôn lấp. Thế nhưng hiện tại, các chương trình PLRTN ở các địa phương phần lớn chỉ mang tính thử nghiệm, chưa đồng bộ, quyết liệt và chính thức hóa.

Cách đây 15 năm, Hà Nội cũng đã thực hiện dự án phân loại rác tại nguồn (3R) do Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ. Dự án bốn triệu USD được triển khai thí điểm trên tại bốn phường của nội thành Hà Nội gồm Phan Chu Trinh, Nguyễn Du, Thành Công và Láng Hạ.

Từ năm 2006 đến hết năm 2009, 18.000 gia đình được huấn luyện cách phân loại rác tại nguồn. Tuy nhiên, sau khi dự án kết thúc, việc phân loại CTRSH trên địa bàn Hà Nội không được duy trì. Nguyên nhân là bởi chúng ta chưa có sự chuẩn bị chu đáo; quy trình, công nghệ xử lý rác thải chưa phù hợp, thiếu đồng bộ. Rác thải được phân loại thành rác tái chế, vô cơ và rác hữu cơ, trong đó một phần rác hữu cơ được xử lý, sản xuất thành phân bón vi sinh nhưng đầu ra cho loại phân bón này thiếu ổn định, rất khó tiêu thụ trên thị trường và không có đơn vị bao tiêu sản phẩm…

TP Hồ Chí Minh đã triển khai phân loại CTRSH tại nguồn thí điểm từ những 2002 với lộ trình từng bước rõ ràng. Nếu năm 2017, mỗi quận/huyện thực hiện ít nhất tại một phường/xã/thị trấn thì năm 2018 mở rộng số lượng từ 3-5 và đến năm 2020 thì triển khai trên toàn địa bàn thành phố. Thế nhưng, kết quả thu lại rất khiêm tốn.

Một số tỉnh, thành phố khác cũng có các dự án tương tự như: Hưng Yên (2012- 2014), Bắc Ninh (2014), Lào Cai (2016), Bình Dương (2017-2018), Đồng Nai (2016- 2018), Đà Nẵng (2017), Hà Tĩnh (2019)… tuy vậy, hiệu quả thu về khá khiêm tốn.

Nguyên nhân là do thiết bị, phương tiện thu gom, vận chuyển chưa phù hợp với CTRSH được phân loại; nhiều nơi áp dụng một phương pháp xử lý cho tất cả CTRSH được thu gom; kinh phí thực hiện cho phân loại CTRSH tại nguồn cao; thiếu chương trình truyền thông mang tính tổng thể về phân loại CTRSH tại nguồn.

Việc đánh giá tình hình quản lý CTRSH tại Việt Nam hiện nay, nhất là việc phân loại chất thải tại nguồn, công nghệ xử lý, tái chế, việc thu phí CTRSH là hết sức cần thiết theo đúng tinh thần của Luật Bảo vệ môi trường 2020.

PLRTN là biểu hiện của nền kinh tế tuần hoàn. Kinh tế tuần hoàn sẽ tiến tới “không rác thải”. Chúng ta có thể xử lý, tái chế được tất cả các loại rác. Nhưng muốn thế phải có công nghệ, phải PLRTN. Nếu phân loại rác tốt sẽ hạn chế chôn lấp, đốt rác gây ra nhiều hệ lụy môi trường

Thực trạng phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn và tái chế rác thải tại Việt Nam

Một số kinh nghiệm phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn

Theo kinh nghiệm của các chuyên gia Nhật Bản: Trước hết, về mặt kỹ thuật công tác phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn cần:

– Phân ra theo địa bàn: đô thị, vùng ven đô và nông thôn: Phân chia theo địa bàn để phù hợp với thành phần, tính chất của rác thải để lựa chọn phương thức phân loại, phù hợp với mật độ dân cư tức là lượng rác thải phát sinh để bố trí phương tiện thu gom, vận chuyển, công nghệ xử lý.

– Xác định phương thức thu gom.

– Trách nhiệm của các cấp chính quyền đối với từng loại chất thải rắn.

Về phương thức thu gom đối với từng loại chất thải

+ Chất thải thực phẩm: Tổ chức địa điểm thu gom riêng (theo nhóm các cơ sở nhà hàng ăn uống và hộ gia đình).

+ Chất thải tái chế: Tổ chức địa điểm thu gom kết hợp.

+ Chất thải cồng kềnh: Tổ chức thu gom theo yêu cầu (chủ nguồn thải phải báo cho đơn vị thu gom về chủng loại chất thải và kích thước).

+ Chất thải nguy hại (có trong chất thải rắn sinh hoạt): Tổ chức thu gom tại các địa điểm thu gom riêng hoặc kết hợp.

+ Chất thải còn lại: Thu gom trực tiếp tại cửa.

Về trách nhiệm của các cấp chính quyền

+ Lập kế hoạch thực hiện phân loại rác tại nguồn có áp dụng thu giá dịch vụ theo lượng thải. Bố trí các điểm thu gom kết hợp trên địa bàn.

+ Xây dựng hệ thống đăng ký/ giám sát đối với các nhóm cộng đồng/ cơ sở kinh doanh (quy trình và nội dung đăng ký thực hiện, các hoạt động giám sát bao gồm các thông tin như: khối lượng chất thải giảm thiểu, hình thức hỗ trợ, khuyến khích các nhóm, thời hạn đăng ký).

+Tập huấn các cán bộ nòng cốt để chỉ đạo thực hiện của các nhóm cộng đồng/ cơ sở kinh doanh xác định.

+ Hướng dẫn, giám sát việc thực hiện của các chủ thải lớn (Giám sát kế hoạch Giảm thải của các chủ thải lớn và xây dựng Hồ sơ quản lý chất thải rắn, kiểm tra việc thực hiện tại các cơ sở kinh doanh).

+ Xây dựng hệ thống thu gom chất thải cồng kềnh trên địa bàn (Thu và sửa chữa đồ nội thất …).

+ Xây dựng hệ thống thu gom chất thải còn lại cần xử lý.

+ Điều chỉnh nội dung hợp đồng đối với các nhà thầu thu gom và vận chuyển chất thải trên địa bàn.

+ Bố trí nguồn ngân sách cho các hoạt động.

Thực trạng về tái chế chất thải đô thị

Theo tổng kết của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì hoạt động tái chế CTRSH còn mang tính nhỏ lẻ, tự phát, chủ yếu vẫn được thực hiện bởi khu vực phi chính thức ở các làng nghề, gây ô nhiễm môi trường. Phần lớn các cơ sở tái chế có quy mô nhỏ, mức độ đầu tư công nghệ không cao, đa số công nghệ đều lạc hậu, máy móc thiết bị cũ, gây ô nhiễm môi trường thứ cấp.

Phương thức xử lý CTRSH chủ yếu vẫn là chôn lấp, các bãi chôn lấp chủ yếu tồn tại từ lâu, tiêu tốn quỹ đất; tỷ lệ chất thải được tái chế, xử lý kết hợp thu hồi năng lượng còn thấp. Nhiều cơ sở xử lý CTRSH tái chế thành phần hữu cơ thành phân vi sinh (composting) đã được xây dựng và vận hành nhưng chưa đạt yêu cầu về bảo vệ môi trường.

Theo Nghị định 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ: Tái chế chất thải là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật để thu lại các thành phần có giá trị từ chất thải.

Hầu hết các thành phần trong chất thải rắn sinh hoạt có thể được tái chế. Chỉ còn lại một tỷ lệ chất thải rất nhỏ phải đem chôn lấp. Điều này sẽ tiết kiệm chi phí xử lý rất nhiều so với việc đem chôn lấp, hoặc đốt hoàn toàn.

Tái chế chất thải không chỉ có ý nghĩa về mặt môi trường mà còn đem lại lợi ích về kinh tế. Chúng làm giảm sự phụ thuộc của con người vào việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt.

Tái chế rác thải là một trong những cách giúp hạn chế việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cụ thể:135 tấn rác tái chế có thể tiết kiệm được 3,5 triệu lít nước, 1,9 triệu cây xanh, 500.000 KW/h, giảm 3 tấn chất làm ô nhiễm không khí và 1.300m3 đất để chôn lấp.

Tái chế rác thải nhựa: Theo báo cáo “Nghiên cứu Thị trường cho Việt Nam – Cơ hội và rào cản đối với tuần hoàn nhựa” do IFC vừa công bố, mỗi năm, khoảng 3,9 triệu tấn nhựa PET, LDPE, HDPE và PP được tiêu thụ tại Việt Nam. Trong số này, chỉ 1,28 triệu tấn (33%) được thu gom tái chế (CFR). Do vậy, có tới 2,62 triệu tấn nhựa bị thải bỏ, dẫn đến mất 75% giá trị vật liệu của nhựa, tương đương từ 2,2 – 2,9 tỷ USD mỗi năm. Nếu tất cả được thu gom và tái chế thành các sản phẩm có giá trị, tổng giá trị vật liệu giải phóng được nhờ tái chế sẽ tương đương 3,4 tỷ USD mỗi năm.

“Chất thải là tài nguyên” – Một số giải pháp tái sử dụng, tái chế của Môi Trường Á Châu

– Môi Trường Á Châu tự hào là đơn vị trực tiếp tái sử dụng vải vụn thành vải lau công nghiệp. Mỗi năm, hơn 5000 tấn vải lau từ vải vụn tái sử dụng được cung ứng ra thị trường.

– Từ năm 2020 mỗi tháng hơn 10.000 tấn chất thải may mặc được tư vấn quản bằng các giải pháp “không chôn lấp”.

– Đối với những loại chất thải công nghiệp không còn giá trị tái chế hoặc tiềm năng tái chế thấp được Môi Trường Á Châu tiền xử lý (cắt, nghiền) phù hợp trở thành nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào thay thế nhiên liệu hóa thạch truyền thống (than, dầu) cấp trực tiếp cho các nhà máy xi măng.

nhựa giá trị thấp
Ảnh: Hoạt động cấp nguyên, nhiên liệu thay thế sản xuất xi măng của Môi Trường Á Châu

Đồng hành cùng giải pháp quản lý chất thải bền vững

nhựa giá trị thấp và giải pháp xanh

GS.TS Nguyễn Hữu Dũng Viện Môi trường Đô thị và Công nghiệp Việt Nam

TH: Môi trường Á Châu

Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị

Bạn cũng có thể thích