Thúc đẩy cải cách, tăng tốc thực thi chính sách để đạt mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề ra
Trong bối cảnh quốc tế bấp bênh và rủi ro hơn, điều mà giới kinh doanh gọi là thế giới VUCA (biến động, không chắc chắn, phức tạp và mơ hồ), kinh tế Việt Nam đã duy trì được sự ổn định. Tuy nhiên, thách thức còn rất lớn, đòi hỏi cần thúc đẩy các cải cách mạnh hơn để khắc phục những bất cập. Đặc biệt, nếu không tăng tốc khâu thực thi chính sách sẽ khó đạt được các mục tiêu mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra.
Ảnh minh họa |
Vượt khó trong bối cảnh chưa có tiền lệ
Kể từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Khó khăn, thách thức mới xuất hiện nhiều hơn là cơ hội, nặng nề hơn so với dự báo, cũng như so với các nhiệm kỳ gần đây. Đó là chiến tranh (xung đột Nga-Ukraine), dịch bệnh (nhất là đại dịch COVID-19), thiên tai (khí hậu thất thường, khắc nghiệt và nhiều thiên tai hơn). Thời kỳ “họa vô đơn chí” này đã khiến kinh tế-xã hội thế giới và Việt Nam bất thường hơn, bấp bênh và rủi ro hơn – điều mà giới kinh doanh vẫn gọi là thế giới VUCA (biến động, không chắc chắn, phức tạp và mơ hồ).
Tăng trưởng kinh tế thế giới sau khi phục hồi mạnh mẽ năm 2021 (tăng 6%), đang giảm đà, xuống mức tăng 3% năm 2022 và dự báo khoảng 2,1-2,4% năm nay, trước khi tăng trở lại mức 2,4-2,7% năm 2024-2025, nhưng có thể giảm đà tăng trưởng xuống bình quân 1,8% giai đoạn 2022-2030 (WB gọi là “thập niên mất mát”).
Lạm phát (CPI) toàn cầu từ mức bình quân 2,1%/năm giai đoạn 2016-2019 nhảy vọt lên 3,5% năm 2021, đến 8,3% năm 2022, dự báo khoảng 5,5% năm 2023, 3,7% năm 2024 và 3% năm 2025 (hay 4,8%/năm trong giai đoạn này, theo WB). Dịch bệnh khiến kinh tế toàn cầu suy thoái năm 2020, buộc các nước áp dụng chính sách tài khóa-tiền tệ nới lỏng chưa từng có (hơn cả thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009). Xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng lãi suất nhanh chưa từng có (Fed tăng 11 lần trong 17 tháng) nhằm chống lạm phát, nhưng cũng gây hệ lụy đến tăng trưởng chậm, thậm chí suy thoái cục bộ, rủi ro vỡ nợ và thị trường tài chính-tiền tệ gia tăng…
Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải thực hiện đa mục tiêu: Vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, an ninh quốc phòng và tự chủ, tự cường gắn với hội nhập quốc tế…
Với sự đồng lòng, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của Đảng, đồng hành của Quốc hội, sự quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhiều chính sách, giải pháp quyết liệt, quy mô, kể cả chưa có tiền lệ, được các cấp có thẩm quyền ban hành đi kèm việc thành lập, kiện toàn tổ chức, bộ máy chỉ đạo, thực hiện. Phải kể đến như các định hướng, chỉ đạo của Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Nghị quyết 30/2021/QH15 của Quốc hội, Nghị quyết 86/2021/NQ-CP, Nghị quyết 128/2021/NQ-CP về phòng chống dịch bệnh; các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội 2022-2023, về chính sách tài khóa cho phép giãn hoãn, giảm thuế, phí cho doanh nghiệp, người dân với tổng giá trị miễn giảm thuế phí khoảng 210.000 tỷ đồng, tổng giá trị gia hạn là hơn 430.000 tỷ đồng (theo Bộ Tài chính) trong 4 năm (2020-2023). Thực hiện chính sách tiền tệ cho phép cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất, phí dịch vụ, các gói tín dụng ưu đãi… cùng nhiều chỉ thị, nghị quyết, chính sách thúc đẩy đầu tư công, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các thị trường đất đai, bất động sản, xây dựng, du lịch, vốn… được ban hành kịp thời.
Các chính sách, giải pháp chưa từng có nêu trên, cùng với sự quyết liệt của Chính phủ, suốt hơn 2,5 năm qua từ sau Đại hội XIII của Đảng, Việt Nam cơ bản đã vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện, được quốc tế và trong nước ghi nhận.
Nền kinh tế duy trì được đà tăng trưởng và là một điểm sáng “trong bức tranh xám màu” của kinh tế toàn cầu (theo IMF). Tăng trưởng kinh tế năm 2021 đạt 2,6%, năm 2022 đạt 8,02%, cao hơn nhiều so với kế hoạch 6-6,5%. 6 tháng đầu năm 2023 đạt 3,72%, cả năm dự báo tăng khoảng 5-5,5% (bình quân 3 năm đạt khoảng 5,4%, cao gấp 1,7 lần mức bình quân của thế giới là 3,2%). Hệ số tín nhiệm quốc gia và vị thế quốc tế tiếp tục được cải thiện. Các cân đối lớn được đảm bảo, đặc biệt các chỉ số về nợ công, nợ nước ngoài, thâm hụt ngân sách đều dưới ngưỡng và cách khá xa hạn mức Quốc hội cho phép; nợ xấu được kiểm soát, tỉ giá khá ổn định và lạm phát được kiểm soát bình quân 3 năm (2021-2023) khoảng 2,8% (dưới ngưỡng mục tiêu 4%)… Trong đó, 3 động lực tăng trưởng là xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng được duy trì. Xuất khẩu dù đang giảm đà tăng trưởng theo năm do bối cảnh suy giảm bên ngoài, nhưng vẫn tăng khoảng 8%/năm giai đoạn 2021-2023, có thể phục hồi mức tương đương đến năm 2025…
Năm 2021, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới được cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế nâng hạng triển vọng từ “ổn định” lên “tích cực”. Năm 2022 tiếp tục duy trì hạng “ổn định”, nhiều giải thưởng quốc tế về du lịch được vinh danh…
Còn nhiều thách thức trước mắt và dài hạn cần giải quyết
Những kết quả điều hành trên trong phát triển kinh tế-xã hội nửa nhiệm kỳ vừa qua là rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, vẫn nhiều khó khăn, thách thức và tồn tại trong trước mắt cũng như lâu dài, như: Chất lượng tăng trưởng chưa đạt kế hoạch như năng suất lao động và tỷ trọng công nghiệp chế biến-chế tạo trong GDP; các chương trình phục hồi và các chương trình mục tiêu quốc gia có tiến bộ nhưng không đồng đều và còn chậm… Những bất cập tích tụ kéo dài của các thị trường đất đai, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp dù được quan tâm xử lý nhưng cần thời gian phục hồi. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi chưa nghiêm, còn nhiều hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, sợ sai, dẫn đến thực thi công vụ chậm kéo dài… Thể chế được quan tâm hoàn thiện, nhưng khâu thực thi và thể chế cho những vấn đề mới, mô hình kinh doanh mới, bao gồm cả kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh còn chậm.
Để đạt được mục tiêu chung của cả nhiệm kỳ cũng như có định hướng, quyết sách dài hạn. cần các nhóm giải pháp chính.
Một là, các cấp, các ngành, các địa phương phải nỗ lực vượt khó, tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả những nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực theo các nghị quyết, kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành; tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến các thị trường để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản, xăng dầu, thanh khoản ngân hàng…) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân.
Hai là, các cấp, các ngành, địa phương đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội 2022-2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính. Kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai; chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế (nhất là các doanh nghiệp Nhà nước, dự án yếu kém, tổ chức tín dụng yếu kém…) nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; quyết tâm tạo chuyển biến mạnh hơn trong việc thực hiện các đột phá chiến lược mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra.
Ba là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần chú trọng các động lực tăng trưởng, bao gồm: Khơi thông nguồn lực đầu tư, nhất là đầu tư tư nhân cùng với việc kiên trì đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, bởi theo đánh giá của Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV, nếu giải ngân được 95% tổng vốn 713.000 tỷ đồng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư Nhà nước có thể tăng 30%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,2% và đóng góp 2 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP năm 2023. Kích cầu tiêu dùng nội địa, theo tính toán của chúng tôi, tiêu dùng (loại trừ yếu tố giá) tăng thêm 1 điểm phần trăm sẽ giúp GDP tăng thêm 0,2 điểm phần trăm. Quan tâm thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế, nhất là Hà Nội và TPHCM (2 thành phố này đóng góp khoảng 39% tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2019 và có tính lan tỏa cao)…
Bốn là, tiếp tục phối hợp chính sách hiệu quả (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác) nhằm tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, xây dựng, bất động sản, lao động… Theo đó, cần thực hiện hiệu quả hơn các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác đã ban hành cũng như chính sách hoàn thuế VAT… nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng.
Năm là cần quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng bằng cách khai thác tốt hơn các FTA đã ký kết, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, đa dạng hóa hàng hóa và thị trường xuất khẩu, đầu tư; tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư-kinh doanh, thủ tục hành chính, vướng mắc về quy định phòng cháy-chữa cháy, cung ứng điện; quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với doanh nghiệp hiện nay, nhất là về vấn đề pháp lý, thị trường đầu ra, tiếp cận vốn (đặc biệt là khả năng tiếp cận và năng lực hấp thụ vốn) và lao động.
Đặc biệt, cần có giải pháp cụ thể để tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực, địa phương và doanh nghiệp Việt Nam; đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế (nhất là các luật đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản, tổ chức tín dụng, đấu thầu…), bao gồm cả tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách; xây dựng thể chế cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế, cần đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, công vụ; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao đạo đức công vụ… mọi quyết sách đều cần phân giao trách nhiệm, thời hạn cụ thể, có chế tài nghiêm nếu không thực hiện. Cần có cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, vì cái chung cần sớm được cụ thể hóa và nhất quán, đồng bộ thực hiện. Về lâu dài, chính sách tinh giản bộ máy, nâng cao trách nhiệm và chất lượng thực thi công vụ gắn với cải cách tiền lương là cấp thiết.
Đây là những công việc khó, nhưng cần giải quyết mới đảm bảo các mục tiêu trước mắt và lâu dài và cũng là một đột phá chiến lược then chốt mà Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra.
TS. Cấn Văn Lực
Chuyên gia Kinh tế trưởng, Giám đốc Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV
Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính-tiền tệ quốc gia
Nguồn: Báo xây dựng