Thái Nguyên: Động lực phát triển vùng Trung du và miền núi phía Bắc

(Xây dựng) – Ngày 10/02/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của vùng Trung du và miền núi phía Bắc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 11). Để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 11, ngày 01/8/2022, Chính phủ ban hành Chương trình hành động kèm theo Nghị quyết số 96/NQ-CP. Theo đó, tỉnh Thái Nguyên giữ vị trí, vai trò quan trọng trong định hướng phát triển của vùng.

Thái Nguyên: Động lực phát triển vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Trung tâm TP Thái Nguyên.

Đặc điểm vùng Trung du và miền núi phía Bắc

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Tổng diện tích toàn vùng khoảng 116.898 km², chiếm 35% diện tích tự nhiên và dân số 14,7 triệu người, chiếm 15,2% cả nước.

Trung du và miền núi phía Bắc là địa bàn chiến lược, đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của quốc gia. Đồng thời, đây cũng là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý, hiếm và diện tích đồi rừng rộng lớn, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp và nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số, để phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ.

Bên cạnh kết quả, thành tích đã đạt được, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ cũng còn không ít hạn chế, yếu kém. Tiềm năng, lợi thế của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả, vẫn là “vùng trũng” trong phát triển và là “lõi nghèo” của cả nước, liên kết vùng còn yếu. Khoảng cách về trình độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người trong nội vùng so với bình quân chung của cả nước tiếp tục gia tăng.

Sau 17 năm triển khai Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020” (viết tắt là Nghị quyết số 37) đã khẳng định sự thay đổi khá toàn diện về kinh tế – xã hội, kiến tạo không gian phát triển hài hòa, đồng bộ giữa các vùng, miền; thể hiện tầm nhìn bao quát và chiến lược của Đảng ta. Nghị quyết số 11 là sự tiếp nối Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị, là kim chỉ nam, động lực đưa vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ tiếp tục phát triển nhanh, bền vững lên tầm cao mới.

Mục tiêu phát triển

Nghị quyết đã xác định: Đến năm 2030, vùng Trung du và miền núi phía Bắc là vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện, trên cơ sở tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng liên kết nội vùng và với Vùng đồng bằng sông Hồng, Thủ đô Hà Nội; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo và năng lượng; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ, đặc sản; kinh tế cửa khẩu, du lịch; bảo vệ, khôi phục rừng, nhất là rừng đầu nguồn; đẩy mạnh trồng rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững; khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên, khoáng sản; bảo vệ môi trường, an ninh sinh thái và an ninh nguồn nước. Một số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá của cả nước; bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện và nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc; tổ chức đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường.

Tầm nhìn đến năm 2045, Trung du và miền núi phía Bắc là vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện; hình mẫu phát triển xanh của cả nước, trong đó có khoảng 50% số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá của cả nước; bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc; tổ chức Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường.

Trong giai đoạn 2021 – 2030, tăng trưởng GRDP vùng đạt 8 – 9%/năm; đến năm 2030, quy mô kinh tế vùng đạt khoảng 2.100 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 12 – 13%, công nghiệp – xây dựng chiếm 45 – 46%, dịch vụ chiếm 37 – 38%; GRDP bình quân đầu người đạt 140 triệu đ/người/năm (giá hiện hành); tổng thu ngân sách Nhà nước đạt khoảng 190 nghìn tỷ đồng. Tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 40%; có 80% số xã đạt chuẩn NTM, trong đó có 30% số xã đạt chuẩn NTM nâng cao; mỗi tỉnh có ít nhất 3 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM…

Thái Nguyên giữ vị trí, vai trò quan trọng với sự phát triển vùng

Tỉnh Thái Nguyên tiếp giáp Thủ đô Hà Nội, trung tâm giao lưu kinh tế – xã hội giữa vùng Trung du miền núi phía Bắc với vùng Đồng bằng Bắc Bộ, là điểm nút giao lưu thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình rẻ quạt, kết nối với các tỉnh, thành phố trong vùng và cả nước. Với vị trí thuận lợi, Thái Nguyên có nhiều tiềm năng trở thành trung tâm logistics, trung tâm dịch vụ du lịch – thương mại tổng hợp, trung tâm giáo dục, y tế chất lượng cao của vùng Trung du và miền núi phía Bắc; hình thành các khu công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và trung tâm kinh tế đô thị giảm tải cho Thủ đô Hà Nội.

Theo Nghị quyết số 11 và Chương trình hành động kèm theo Nghị quyết số 96/NQ-CP ngày 01/8/2022 của Chính phủ, Thái Nguyên cùng với các tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn, Sơn La, Lào Cai được xác định là một trong những cực tăng trưởng, trung tâm kinh tế của vùng. Chính phủ sẽ tập trung phát triển các hành lang kinh tế gắn với TP Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng. Theo đó, tỉnh Thái Nguyên là một mắt xích quan trọng trong hành lang kinh tế Hà Nội – Thái Nguyên – Bắc Kạn. Sẽ hình thành chuỗi liên kết khu vực động lực của vùng tại vành đai Bắc Giang – Thái Nguyên – Phú Thọ, gắn với vùng Thủ đô Hà Nội; hình thành chuỗi giá trị ngành, sản phẩm của vùng, trong đó Thái Nguyên và Bắc Giang là trung tâm sản xuất điện, điện tử, cơ khí chế tạo trình độ cao.

Về hạ tầng đến năm 2030, hoàn thành các tuyến đường bộ cao tốc, tiền cao tốc; tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh tuyến đường bộ nối các địa phương với đường cao tốc, đường vành đai biên giới, tuyến đường quốc lộ quan trọng kết nối các địa phương trong vùng, trong đó tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên hoàn thành tuyến đường bộ cao tốc, tiền cao tốc Vành đai 5, qua địa bàn tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang. Ngoài ra, Bộ Chính trị, Chính phủ còn đưa các nhiệm vụ và nhóm giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững kinh tế vùng; phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Trong đó, tỉnh Thái Nguyên là một trong những địa bàn trung tâm, chiến lược, động lực của vùng.

Như vậy, Nghị quyết số 11 và Chương trình hành động kèm theo Nghị quyết số 96/NQ-CP ngày 01/8/2022 của Chính phủ được ban hành là sự tiếp nối quan trọng của Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị, là kim chỉ nam và động lực đưa vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ nói chung và mỗi địa phương trong vùng nói riêng phát triển. Thái Nguyên tự hào giữ vị trí, vai trò, mắt xích quan trọng trong vùng. Việc Thái Nguyên thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng và công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị sẽ là động lực cho cả vùng và góp phần quan trọng hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chính phủ đề ra.

Nguồn: Báo xây dựng

Bạn cũng có thể thích