Tạo cơ chế, chính sách thu hút nhân lực hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (sau đây gọi là “Luật TC&QCKT”) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2006 (Luật số 68/2006/QH11) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 là văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ liên quan đến tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Qua hơn 15 năm thực hiện quy định của Luật TC&QCKT và các văn bản hướng dẫn, hoạt động tiêu chuẩn hóa đã được nâng lên cả chất và lượng, công tác kế hoạch, xây dựng, thẩm định và ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đã chặt chẽ hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất chất lượng, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa chủ lực của Việt Nam. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật TC&QCKT được ban hành đầy đủ.
Các văn bản quy phạm pháp luật ban hành là hành lang pháp lý quan trọng, tạo sự thống nhất và động bộ cho việc triển khai công tác lập kế hoạch, xây dựng, thẩm định, công bố tiêu chuẩn/ban hành quy chuẩn kỹ thuật, cũng như hoạt động áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong thực tiễn sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, thực tiễn hơn 15 năm thi hành, cùng với việc hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam thời gian qua cho thấy Luật TC&QCKT còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập nhất định cần được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính cũng như để bảo đảm thi hành các cam kết về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong các FTA mà Việt Nam đã và đang đàm phán hoặc đã ký kết.
Quy định liên quan đến tổ chức, hoạt động của ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia
Hiện nay, với hơn 13.000 TCVN đã được công bố, Việt Nam đứng trong nhóm đầu các nước ASEAN. Để đạt được kết quả trên, đến nay, Bộ KH&CN đã thành lập 135 Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia và 54 tiểu ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia gồm hơn 1.100 chuyên gia là các giáo sư, tiến sỹ, nhà quản lý hàng đầu trong những lĩnh vực chuyên môn sâu thuộc các cơ quan quản lý chuyên ngành, viện nghiên cứu, giảng viên các trường đại học, phòng thử nghiệm, nhà sản xuất, các Hội, Hiệp hội ngành nghề… tham gia xây dựng tiêu chuẩn quốc gia và Tiêu chuẩn quốc tế trong nhiều lĩnh vực.
Việt Nam hiện là thành viên chính thức (thành viên P) của 20 Ban kỹ thuật và tiểu Ban kỹ thuật quốc tế ISO và IEC (trong đó có 17 Ban kỹ thuật và tiểu Ban kỹ thuật quốc tế của ISO và 3 Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc tế IEC); tham gia với tư cách thành viên quan sát (thành viên O) đối với 62 Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc tế của ISO.
Việt Nam tham gia rất tích cực trong quá trình góp ý, xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế: góp ý 3.201 dự thảo tiêu chuẩn quốc tế ISO, IEC từ năm 2012 đến 2021(trong đó, 2.010 dự thảo của ISO, 1.191 dự thảo của IEC) và góp ý nhiều tiêu chuẩn, tài liệu của Ủy ban an toàn thực phẩm quốc tế CODEX…
Các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế, khu vực, quốc gia đều coi Ban kỹ thuật là trung tâm/trái tim của hoạt động xây dựng tiêu chuẩn. Tuy nhiên, hiện nay, nhân lực, nguồn lực để hoạt động Ban kỹ thuật tại Việt Nam chưa tương xứng với vai trò trung tâm của mình. Nhìn sang các nước trong khu vực, có thể thấy sự khác biệt lớn.
Ví dụ, Malaysia hiện nay có 234 Ban kỹ thuật/Tiểu ban kỹ thuật tiêu chuẩn với đội ngũ thành viên là 2.400 người, gấp hơn hai lần số lượng của Việt Nam. Tham gia tổ chức quốc tế của Malaysia cũng vuợt trội khi so sánh với Việt Nam, khi tham gia thành viên chính thức của 52 Ban kỹ thuật quốc tế, thành viên quan sát của 80 ban kỹ thuật quốc tế, làm chủ tịch và đồng chủ tịch của 06 Ban kỹ thuật quốc tế.
Để có được kết quả nổi bật trên, Malaysia đã có những chính sách hết sức thiết thực nhằm phát triển ban kỹ thuật tiêu chuẩn của mình, như khuyến khích khu vực tư nhân tham gia các hoạt động tiêu chuẩn hóa quốc gia. Ngay từ năm 2004, Chính phủ Malaysia đã đưa ra mức khấu trừ thuế đối với chi phí phát sinh của khu vực tư nhân khi tham gia vào các hoạt động tiêu chuẩn hóa quốc tế, phí đánh giá, duy trì sự phù hợp tiêu chuẩn cho doanh nghiệp…
Do vậy, cần có cơ chế chính sách nhằm phát triển, xây dựng Ban kỹ thuật lớn mạnh, tương ứng với Ban kỹ thuật của các Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế, khu vực phù hợp với xu thế hội nhập trong các FTA thế hệ mới. Cụ thể, cần xem xét quy định cụ thể chính sách tập trung thu hút, hỗ trợ nguồn lực tài chính, con người nhằm mục tiêu phát triển Ban kỹ thuật tương ứng với Ban kỹ thuật quốc tế, khu vực, là trung tâm của hoạt động xây dựng tiêu chuẩn, theo thông lệ quốc tế, khu vực và các nước phát triển trong khu vực.
Trong đó, cần xem xét quy định tính thống nhất, tập trung của ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia là đầu mối thống nhất của các thành viên, tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia… khi tham gia xây dựng tiêu chuẩn, tránh tình trạng dàn trải, lãng phí, thiếu tập trung (nhân lực, tài chính) khi mỗi bộ ngành, lĩnh vực lại tổ chức hoạt động các ban kỹ thuật riêng, có thể dẫn đến tình trạng định hướng xây dựng tiêu chuẩn đi ngược lại chính sách tiêu chuẩn chung của quốc gia. Việc quy định đầu mối tập trung của ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia là theo thông lệ quốc tế và kinh nghiệm của các nước trong khu vực (Ở hầu hết quốc gia trong khối ASEAN, tiêu chuẩn quốc gia chỉ do một cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc gia ban hành).
Cơ quan tiêu chuẩn hoá của các nước ASEAN chịu trách nhiệm thẩm định, ban hành tiêu chuẩn quốc gia trên cơ sở hoạt động của ban kỹ thuật và đại diện trong các tổ chức quốc tế và khu vực về tiêu chuẩn hoá. Ví dụ: tại Thái Lan là Viện Tiêu chuẩn công nghiệp Thái Lan (TISI) thuộc Bộ Công nghiệp; tại Malaysia là Tổng cục Tiêu chuẩn Malaysia (DSM) thuộc Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường; tại Singapo là Cơ quan tiêu chuẩn (Enterprise Singapore); tại Indonexia là Cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc gia trực thuộc Chính phủ (BSN…).
Ảnh minh hoạ
Điều 16 Luật TC&QCKT quy định:
“1. Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia là tổ chức tư vấn kỹ thuật do Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập cho từng lĩnh vực tiêu chuẩn.
2. Thành viên ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia bao gồm đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức khoa học và công nghệ, hội, hiệp hội, doanh nghiệp, các tổ chức khác có liên quan, người tiêu dùng và các chuyên gia”.
Có thể thấy rõ, Luật TC&QCKT chưa quy định đối tượng là chuyên gia nước ngoài tham gia Ban kỹ thuật TCVN. Trong khi đó thực tiễn hiện nay với chính sách mở cửa thu hút đầu tư vào Việt Nam của nhà nước, nhu cầu của doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp FDI cử chuyên gia có quốc tích nước ngoài tham gia ban kỹ thuật TCVN là khá cao. Mặt khác, theo quy định CPTPP thì Việt Nam phải cho phép các tổ chức, cá nhân của các nước thành viên được tham gia sâu vào các giai đoạn xây dựng dự thảo TCVN từ khâu lập kế hoạch đến xây dựng, công bố tiêu chuẩn.
Bên cạnh đó, Luật TC&QCKT cũng chưa có quy định về việc tham gia vào các ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc tế, trong khi thực tiễn hiện nay cho thấy cần chủ động, tích cực tham gia xây dựng tiêu chuẩn quốc tế thông qua các ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc tế (ISO, IEC, Codex…) nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ rào cản kỹ thuật, thúc đẩy xuất khẩu, đồng thời là kênh tiếp cận hiệu quả các tiến bộ KH&CN.
Bất cập trong quy định liên quan đến cơ chế, chính sách thu hút nhân lực hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn
Nguồn nhân lực luôn là yếu tố quyết định trong thành công của mỗi tổ chức, bất kể tổ chức đó hoạt động trong lĩnh vực nào, qui mô ra sao. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế tri thức ngày càng được đề cao và xu thế toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới thì nguồn nhân lực càng khẳng định vị trí chiến lược góp phần vào quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, trong đó có lĩnh vực tiêu chuẩn hóa.
Phát triển nguồn nhân lực tiêu chuẩn hóa là yêu cầu quan trọng góp phần vào sự hình thành và phát triển nền tảng tiêu chuẩn hóa quốc gia vững mạnh, giúp tạo ra những sản phẩm tiêu chuẩn làm công cụ hỗ trợ hữu hiệu cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường, tăng cường năng lực cạnh tranh, khả năng hội nhập…
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ tiêu chuẩn hóa có đủ trình độ, năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu mới, trong nhiều năm, Bộ KH&CN đã triển khai các hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân lực tiêu chuẩn hóa đến các đối tượng như chuyên gia, thành viên ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia, giảng viên, cán bộ làm công tác tiêu chuẩn hóa tại các bộ, ngành, doanh nghiệp. Đến nay, đội ngũ cán bộ tiêu chuẩn hóa đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều cán bộ đã phát huy được tinh thần chủ động, sáng tạo trong công việc, ứng dụng tốt những kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tiêu chuẩn hóa tại đơn vị.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, đội ngũ cán bộ, nhân lực về tiêu chuẩn hóa còn thiếu và chất lượng chưa thực sự cao theo yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Theo phản ánh của các Sở, Chi cục địa phương báo cáo đội ngũ cán bộ, công chức công tác trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật còn thiếu, không đủ khả năng, chuyên môn để nắm bắt được các quy định trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn ảnh hưởng đến công tác quản lý.
Các quốc gia phát triển như Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản từ lâu đã có những chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực tiêu chuẩn hóa. Đặc biệt, gần đây các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc,… có các chính sách nhằm thu hút, phát triển nguồn nhân lực tiêu chuẩn hóa để tham gia quá trình hội nhập toàn cầu. Các chuyên gia, nhân lực tiêu chuẩn hóa của các nước này không chỉ có hoạt động trong nước mà còn tham gia sâu rộng vào hoạt động của các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế như ISO, IEC, ITU… Các tổ chức như ISO, IEC cũng có các chương trình phát triển tài năng trẻ trong lĩnh vực tiêu chuẩn.
Tuy nhiên, Luật TC&QCKT hiện nay chưa thể hiện rõ chính sách ưu tiên của nhà nước về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Cụ thể, Điều 7 Luật TC&QCKT chỉ quy định chính sách đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quản lý nhà nước về hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, đào tạo kiến thức về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật cho các ngành kinh tế – kỹ thuật. Trong khi các quốc gia phát triển, các nước trong khu vực đã đưa chương trình đào tạo về tiêu chuẩn hóa trong trường đại học, cơ sở dạy nghề, thậm chí các nước phát triển đã dạy nội dung về tiêu chuẩn hóa trong trường trung học (Đức, Anh)…
Hiện nay, đội ngũ công tác trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật tại các địa phương trong một số lĩnh vực còn yếu, chưa được đào tạo chuyên sâu, trang thiết bị, cơ sở vật chất chưa đáp ứng đầy đủ để thực hiện các hoạt động về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Luật TC&QCKT hiện nay còn thiếu các chính sách thiết thực trong việc tập trung đầu tư phát triển nhân lực tiêu chuẩn hóa đạt trình độ quốc tế; áp dụng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực về tiêu chuẩn trong nước và ngoài nước, nhất là lực lượng trẻ tài năng trong hoạt động nghiên cứu, xây dựng, triển khai áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; chính sách đào tạo về tiêu chuẩn ngay trong trường đại học như kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, các nước trong khu vực.
Do vậy, cần xem xét có chính sách thiết thực trong lĩnh vực tiêu chuẩn như: chính sách tập trung đầu tư phát triển nhân lực tiêu chuẩn hóa đạt trình độ quốc tế; áp dụng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực về tiêu chuẩn trong và ngoài nước, nhất là lực lượng trẻ tài năng trong hoạt động nghiên cứu, xây dựng, triển khai áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; chính sách đào tạo về tiêu chuẩn ngay trong trường đại học như kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, các nước trong khu vực.
Phong Lâm