Quy hoạch hệ thống cảng biển Việt Nam: Miền Trung có 9 cảng biển loại 1  

Thông tin từ Văn phòng Chính phủ cho hay Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vừa ký Quyết định 1579/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo quyết định nói trên, nhóm 1 gồm 5 cảng biển. Cụ thể: Cảng biển Hải Phòng, cảng biển Quảng Ninh, cảng biển Thái Bình, cảng biển Nam Định và cảng biển Ninh Bình. Nhóm 2, có 6 cảng biển: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và cảng biển Thừa Thiên – Huế. Nhóm 3 gồm 8 cảng biển: Các cảng biển Đà Nẵng (gồm khu vực huyện đảo Hoàng Sa), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa (gồm khu vực huyện đảo Trường Sa), Ninh Thuận và cảng biển Bình Thuận.

Nhóm 4 gồm 5 cảng biển: Cảng biển TP.HCM, cảng biển Đồng Nai, cảng biển Bà Rịa – Vũng Tàu, cảng biển Bình Dương và cảng biển Long An. Nhóm 5 gồm 12 cảng biển: Cảng biển Cần Thơ, cảng biển Đồng Tháp, cảng biển Tiền Giang, cảng biển Vĩnh Long, cảng biển Bến Tre, cảng biển An Giang, cảng biển Hậu Giang, cảng biển Sóc Trăng, cảng biển Trà Vinh, cảng biển Cà Mau, cảng biển Bạc Liêu và cảng biển Kiên Giang.

Cảng Đà Nẵng là một trong cảng ở miền Trung quy hoạch tiềm năng thành cảng biển đặc biệt. (Ảnh: Đình Toàn)

Đáng chú ý, theo quy mô, chức năng, phân loại quy hoạch hệ thống cảng biển Việt Nam có 2 cảng biển đặc biệt là cảng biển Hải Phòng và cảng biển Bà Rịa – Vũng Tàu. Cùng với đó cả nước có 15 cảng biển loại 1, trong đó các tỉnh miền Trung có 9 cảng.

Cụ thể cảng biển Quảng Ninh (miền Bắc); các cảng biển miền Trung gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa (miền Trung) và miền Nam có cảng biển TP.HCM, Đồng Nai, Cần Thơ, Long An, Trà Vinh. Riêng 3 cảng biển Thanh Hóa, Đà Nẵng, Khánh Hòa quy hoạch tiềm năng thành cảng biển đặc biệt.

Cảng Cửa Lò, tỉnh Nghệ An – 1 trong 9 địa phương miền Trung quy hoạch có cảng biển loại 1. (Ảnh: Đình Toàn)

Các cảng biển loại 2 có 6 cảng biển, gồm: Cảng biển Quảng Bình, Quảng Trị, Ninh Thuận, Bình Thuận, Hậu Giang, Đồng Tháp; Cảng biển loại 3 có 13 cảng biển, gồm: Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Phú Yên, Bình Dương, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Trong đó, Cảng biển Sóc Trăng quy hoạch tiềm năng thành cảng biển đặc biệt.

Quy hoạch hệ thống cảng biển nói trên, Chính phủ đặt ra mục tiêu đến năm 2030 phát triển hệ thống cảng biển đồng bộ, hiện đại, dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, an toàn hàng hải và bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần đưa nước ta cơ bản trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 với một số chỉ tiêu cụ thể như: Đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa, giao thương giữa các vùng, miền trong cả nước và hàng trung chuyển, quá cảnh cho các nước trong khu vực cũng như nhu cầu vận tải hành khách nội địa và quốc tế.

Hệ thống cảng biển đáp ứng thông qua lượng hàng hóa từ 1.140 đến 1.423 triệu tấn (trong đó hàng container từ 38 đến 47 triệu TEU); hành khách từ 10,1 đến 10,3 triệu lượt khách; ưu tiên phát triển các khu bến cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng), Cái Mép (Bà Rịa – Vũng Tàu).

Cảng Chân Mây, H. Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế, một trong những nơi quy hoạch có cảng biển loại 1. (Ảnh: Đình Toàn)

Cùng với đó Chính phủ đề ra nhiệm vụ nghiên cứu cơ chế chính sách phù hợp phát triển từng bước cảng trung chuyển quốc tế tại Vân Phong (Khánh Hòa) để khai thác tiềm năng về điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý. Quy hoạch định hướng phát triển bến cảng Trần Đề (Sóc Trăng) phục vụ Đồng bằng sông Cửu Long để có thể triển khai đầu tư khi có đủ điều kiện; các cảng biển quy mô lớn phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của cả nước hoặc liên vùng; các bến cảng khách quốc tế gắn với các vùng động lực phát triển du lịch; các bến cảng quy mô lớn phục vụ các khu kinh tế, khu công nghiệp; các bến cảng tại các huyện đảo phục vụ phát triển kinh tế – xã hội gắn với quốc phòng – an ninh và chủ quyền biển đảo.

Theo quy hoạch, các nhóm cảng biển, cảng biển và khu bến cảng có những nhiệm vụ, chỉ tiêu cụ thể. Đối với cảng biển nhóm 1, được hoạch định đến năm 2030 hàng hóa thông qua là từ 305 triệu tấn đến 367 triệu tấn (hàng container từ 11 đến 15 triệu TEU); hành khách từ 162.000 đến 164.000 lượt. Tầm nhìn đến 2050: Đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 5,0 – 5,3%/năm; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng từ 1,5 – 1,6%/năm. Hoàn thành đầu tư khu bến cảng Lạch Huyện, Cái Lân và di dời các bến cảng trên sông Cấm phù hợp với quy hoạch phát triển TP. Hải Phòng; đầu tư phát triển các bến cảng tại khu bến Nam Đồ Sơn – Văn Úc, Cẩm Phả, Hải Hà.

Ngư dân đưa hải sản lên bờ tại cảng Gianh, tỉnh Quảng Bình. (Ảnh: Đình Toàn)

Nhóm cảng biển số 2 đến năm 2030 hàng hóa thông qua từ 172 triệu tấn đến 255 triệu tấn (hàng container từ 0,6 – 1 triệu TEU); hành khách từ 202.000 đến 204.000 lượt khách. Tầm nhìn đến 2050: Đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 3,6 – 4,5%/năm; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng từ 0,4 – 0,5%/năm. Hoàn thiện đầu tư, phát triển cụm cảng Nghi Sơn – Đông Hồi, Vũng Áng và Sơn Dương – Hòn La.

Nhóm cảng biển số 3 đến năm 2030 hàng hóa thông qua từ 138 triệu tấn đến 181 triệu tấn (hàng container đạt từ 1,8 – 2,5 triệu TEU); hành khách từ 1,9 – 2,0 triệu lượt khách. Tầm nhìn đến 2050: Đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 4,5 – 5,5 %/năm; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng từ 1,7 – 1,8%/năm. Hoàn thành đầu tư toàn bộ khu bến cảng Liên Chiểu (Đà Nẵng) và hình thành cảng phục vụ hàng hóa trung chuyển quốc tế tại Vân Phong (Khánh Hòa).

Nhóm cảng biển số 4 đến năm 2030 hàng hóa thông qua từ 461 – 540 triệu tấn (hàng container từ 23 – 28 triệu TEU); hành khách từ 1,7 – 1,8 triệu lượt khách. Tầm nhìn đến 2050: đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 3,5 – 3,8 %/năm; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng từ 0,9 – 1,0 %/năm. Hoàn thành đầu tư các bến cảng Cái Mép Hạ. Nghiên cứu hình thành các khu bến cảng mới tại Cần Giờ (trên sông Gò Gia), hoàn thành công tác di dời các bến cảng trên sông Sài Gòn và tiếp tục nghiên cứu di dời các khu bến khác phù hợp với phát triển không gian đô thị TP.HCM.

Hoạt động tại cảng Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi – địa phương có quy hoạch cảng biển loại 1 (Ảnh: Dungquatport)

Ở nhóm cảng biển số 5 đến năm 2030 hàng hóa thông qua từ 64 – 80 triệu tấn (hàng container từ 0,6 – 0,8 triệu TEU); hành khách từ 6,1 – 6,2 triệu lượt khách. Tầm nhìn đến 2050: Đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 5,5 – 6,1%; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng từ 1,1 – 1,25%. Hình thành cảng cửa ngõ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Về định hướng hạ tầng giao thông kết nối, phát triển các tuyến đường sắt kết nối với cảng biển loại đặc biệt và cảng biển loại 1 trên hành lang Bắc – Nam; hình thành các bến cho phương tiện thủy nội địa trong vùng nước cảng biển; hệ thống đường bộ cao tốc kết nối với các cảng biển loại đặc biệt, hệ thống quốc lộ, đường địa phương kết nối trực tiếp đến hệ thống cảng biển.

Phát triển cảng cạn tại các khu vực kinh tế, hành lang kinh tế, ưu tiên quy hoạch các vị trí có kết nối thuận lợi bằng vận tải đường thủy nội địa, vận tải sông pha biển, đường bộ cao tốc, đường sắt đến các cảng biển quan trọng trong các nhóm cảng biển.

Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến năm 2030 khoảng 313.000 tỷ đồng (chỉ bao gồm các bến cảng kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hóa), được huy động chủ yếu từ nguồn ngoài ngân sách, vốn doanh nghiệp và các nguồn vốn hợp pháp khác. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước tập trung cho hạ tầng hàng hải công cộng; khu vực trọng điểm, tạo sức lan tỏa và thu hút đầu tư.

Để triển khai thực hiện thành công quy hoạch hệ thống cảng biển nói trên, quyết định của Chính phủ giao Bộ GTVT chủ trì, phối hợp với các bộ ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương liên quan quản lý, tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch. Quyết định quy hoạch của Chính phủ cũng đề ra các giải pháp về cơ chế, chính sách; huy động vốn đầu tư; về môi trường khoa học và công nghệ; nguồn nhân lực… Trong số đó, giải pháp về hợp tác quốc tế, với những nhiệm vụ như việc tăng cường xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước thông qua các chính sách ưu đãi, thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh; thực hiện các điều ước, thỏa thuận khu vực và quốc tế về biển mà Việt Nam là thành viên; nghiên cứu thanh gia các điều ước quốc tế liên quan; tăng cường hợp tác, tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác, các tổ chức quốc tế nhằm phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và thích ứng biến đối khí hậu…

Nguồn: Realtimes.vn
Bạn cũng có thể thích