Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm
Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm
Chiều 20/9/2024, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII họp phiên bế mạc tại Trụ sở Trung ương Đảng, Hà Nội. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu bế mạc Hội nghị. Gia đình Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu bế mạc Hội nghị của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước.
Kính
thưa các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương
Đảng!
Thưa các
đồng chí tham dự Hội nghị.
Sau 3 ngày làm việc khẩn trương, với
tinh thần trách nhiệm rất cao, Hội nghị Trung ương 10 khoá XIII đã hoàn thành
toàn bộ nội dung, chương trình đề ra. Trung ương đã thảo luận sôi nổi, thẳng
thắn và thống nhất về nhiều vấn đề quan trọng. Trung ương đánh giá cao cách làm
đổi mới, cầu thị của Hội nghị lần này. Trung ương cơ bản thống nhất với các
đánh giá, bài học kinh nghiệm, bối cảnh tình hình, quan điểm, phương hướng,
nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá đã nêu trong các dự thảo các Báo cáo.
Thay mặt Bộ Chính trị Tôi ghi nhận, đánh giá
cao, biểu dương tinh thần làm việc khoa học, thẳng thắn, trách nhiệm, hiệu quả,
đổi mới của Trung ương; công tác chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, chất lượng của các
Tiểu ban, của Văn phòng Trung ương Đảng và các cơ quan có liên quan. Hội nghị
Trung ương rút ngắn thời gian nhưng rất bảo đảm chất lượng. Sau đây, Tôi xin khái
quát, nhấn mạnh và gợi mở một số vấn đề để thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo, triển
khai thực hiện:
1. Hội nghị đã thống nhất cao về nhận thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: Thống nhất xác định thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là mục tiêu cao nhất của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta trong năm 2025. Nhiệm vụ này sẽ được thực hiện với quyết tâm cao
nhất, nỗ lực lớn nhất, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm với các giải
pháp thực hiện hiệu quả nhất, tập trung mọi nguồn lực, biện pháp, phấn đấu đạt
và vượt các mục tiêu đề ra.
Trung ương thống nhất cao với phương
hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2025, về bối cảnh tình hình,
quan điểm phát triển, mục tiêu, các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Với
những kết quả đạt được từ năm 2021 đến nay và dự kiến phát triển kinh tế – xã
hội năm 2025, chúng ta sẽ phấn đấu đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu
giai đoạn 2021-2025 do Đại hội XIII đề ra; Thực tế đến nay vẫn còn khó khăn,
thách thức nhất là việc thực hiện chỉ tiêu GDP – chỉ tiêu quan trọng phản ánh
chất lượng tăng trưởng và việc bảo đảm thực hiện các mục tiêu chiến lược.
Trung ương yêu cầu cả hệ thống
chính trị, trước hết là Chính phủ, người đứng đầu các ban, bộ, ngành, địa
phương phải thực sự quyết tâm, quyết làm, có các giải pháp quyết liệt, dứt
điểm, tăng tốc để thực hiện thành công nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm
2025 được Trung ương thông qua; đạt cho được các chỉ tiêu, nhất là chỉ tiêu GDP
và tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ trong những năm tiếp theo. Cần chú
trọng tập trung cao nhất các giải pháp ưu tiên để bảo đảm tăng trưởng cao của
nền kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, an sinh xã hội, chăm lo tốt nhất cho
đời sống người dân, đặc biệt là đối với các địa phương chịu hậu quả nặng nề của
cơn bão số 3; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả công tác
đối ngoại và không ngừng nâng cao vị thế và đóng góp của Việt Nam vào hoà bình,
ổn định phát triển của khu vực và thế giới.
2. BCHTW cơ bản thống
nhất với những nội dung chủ yếu về các dự thảo văn kiện, công tác nhân sự và
một số vấn đề cụ thể
2.1. Về
văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng
Trung ương thống nhất
đánh giá: Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng,
chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi
mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện
cần thiết và văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm
vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa
nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là
nền tảng, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước
vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam.
Dự thảo Báo cáo chính
trị trình Trung ương cơ bản đã đáp ứng yêu cầu là Báo cáo trung tâm, rõ và mới
ở tầm quan điểm, đường lối, chủ trương lớn; các báo cáo về chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội: xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng thực sự là các
báo cáo chuyên đề, bổ sung quan trọng và cụ thể hoá Báo cáo chính trị; Báo cáo Tổng
kết 40 năm đổi mới đã đúc rút khá toàn diện các căn cứ phục vụ xây dựng Báo cáo
chính trị. Trên cơ sở kiên định hệ quan điểm chỉ đạo mang tính nguyên tắc của
Đảng; các báo cáo đã làm rõ những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội, con người, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, cơ bản
đã hoàn thiện chỉnh thể chủ trương, biện pháp,“đúng”, “trúng”, có tính đột phá
để đưa đất nước bước sang kỷ nguyên mới. Tổng kết 40 năm đổi mới đã thể hiện được
những vấn đề mới về lý luận rút ra từ thực tiễn, là cơ sở quan trọng cho việc
xây dựng các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng.
Tuy nhiên, Trung ương
cũng yêu cầu cần phải tiếp tục tập trung rà soát, bổ sung, hoàn thiện các báo
cáo. Đối với Báo cáo chính trị, cần phải đạt tầm mức công trình khoa học kết tinh trình
độ lý luận, tầm cao trí tuệ của toàn Đảng, niềm tin và khát vọng của cả dân
tộc, phản ánh những quy luật khách quan, xu thế vận động mới của thời
đại và thực
tiễn đất nước; kết tinh toàn
bộ tinh hoa, giá trị của quá khứ, hiện tại và hướng tới tương lai; không quá
dài, chỉ rõ những định hướng lớn để các cấp ủy, mọi
đảng viên thấm nhuần và thực hiện; thật sự là “ngọn đuốc soi đường” dẫn dắt
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào kỷ nguyên mới, sớm đạt các mục tiêu
chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập Nước. Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội, xây dựng Đảng phải thể hiện rõ những luận điểm khái quát trong Báo cáo
chính trị; Tổng kết 40 năm đổi mới
phải phản ánh đầy đủ thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, củng cố luận
cứ vững chắc để định ra phương pháp cho Cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Trung ương thống nhất xác định 05 nhóm vấn đề lớn để tiếp tục hoàn
thiện Văn kiện đó là:
(1) Về đột phá chiến lược, thống nhất cao
xác định đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào
cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động, khơi thông mọi nguồn
lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, phát triển khoa học và công nghệ
đồng bộ, thông suốt, tất cả vì sự phát triển kinh tế – văn hoá – xã hội của đất
nước và phát triển nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; đổi
mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ; đồng bộ và đột phá trong xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội là ưu tiên cao nhất.
(2) Về phương hướng, giải
pháp chiến lược, có 08 vấn đề đó
là (i) Tập trung xây dựng mô hình xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, tạo
nền tảng xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh của Đảng đã xác định
(dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ, nhà
nước quản lý, Đảng Cộng sản lãnh đạo). (ii)
Kiên định phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm, đẩy mạnh
3 đột phá chiến lược, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền
tảng, tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế là
trọng yếu, thường xuyên. Tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới (kết hợp
giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng chiến lược
về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh) gắn với hoàn thiện quan hệ sản
xuất. (iii) Giữ vững độc lập, tự
chủ; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa; kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc. Tiếp
tục xây dựng lực lượng vũ trang tinh-gọn-mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại
theo tinh thần tự lực, tự cường. (iv)
Kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là
bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành nghệ thuật ngoại
giao thời đại mới thể hiện cốt cách con người Việt Nam “Dĩ bất biến, ứng vạn
biến,” “hòa hiếu,” “lấy chí nhân thay cường bạo”; tăng cường đóng góp thiết
thực của Việt Nam trong duy trì hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế
giới. (v) Phát triển văn hoá, con
người; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “Dân là gốc”, “Nhân dân là
chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước,
tự tin, tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến của mọi
người dân và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với phương châm dân biết, dân
bàn, dân giám sát, dân kiểm tra, dân thụ hưởng. (vi) Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền với phương châm
“địa phương quyết, địa phương làm, địa phương
chịu trách nhiệm”, Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường, sáng tạo hoàn
thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo, phục vụ và tăng cường kiểm tra, giám sát;
đồng thời, cải cách triệt để, giảm tối đa thủ tục hành chính, chi phí
tuân thủ của người dân, doanh nghiệp. Khuyến khích tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo
của các địa phương. (vii) Tiếp tục
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện;
đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, khuyến khích bảo vệ
cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, đồng thời phải
phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, không làm ảnh hưởng, cản trở phát triển
kinh tế, xã hội. (viii) Đẩy mạnh công nghệ
chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới
sáng tạo làm động lực chính cho phát triển.
(3) Về một số vấn đề mới từ
thực tiễn cần tiếp tục khẩn trương tổng kết, làm rõ để xác định trong Văn
kiện, như: quản trị quốc gia và quản trị địa phương; sự đồng bộ giữa cơ chế
điều hành, quản lý, quản trị phát triển trong nền kinh tế thị trường; mối quan
hệ giữa tư duy quản lý và tư duy phát triển; nội hàm, cách thức, con đường để
thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nội hàm, mục tiêu, giải pháp thực hiện
thành công đổi mới sáng tạo, công nghệ số trong kỷ nguyên mới; cách thức thực
hiện các chương trình mục tiêu quốc gia để bảo đảm hiệu quả, chống lãng phí;
đổi mới tư duy, quan điểm, quy trình xây dựng Luật, cơ quan làm luật; vấn đề đúng vai,
thuộc bài trong thực hiện “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”;
chính sách xã hội đi đôi với phát triển xã hội; nội hàm đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội,
nghề nghiệp.
(4) Khắc phục các hạn chế đã nêu trong các báo
cáo chính trị, kinh tế – xã hội (về thể chế và pháp luật; vận hành bộ máy; huy
động, sử dụng, phân bổ nguồn lực; công nghiệp hoá, hiện đại hoá, liên kết vùng,
công nghiệp văn hoá, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo, ô
nhiễm môi trường; về hiệu quả sản xuất).
2.2. Về công tác xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng: Trung ương nhất trí
cao trong trong giai đoạn mới, tiếp tục tập trung vào các nhóm giải pháp xây
dựng Đảng, đó là:
(1) Tiếp tục tập trung xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ
chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội
để hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Trong đó, tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan
của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong
lãnh đạo cơ quan nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu các
cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ trong điều kiện mới.
(2) Tập trung hoàn thiện thể chế, nâng
cao năng lực hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng; đổi mới mạnh mẽ việc
ban hành, quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; làm cho mỗi nghị quyết mới
ban hành phải giải quyết được những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, mang tính dẫn
dắt, mở đường và được thực hiện hiệu quả trên thực tế cho nhân tố mới phát
triển.
(3) Đẩy mạnh cải cách hành
chính, nhất là thủ tục hành chính trong Đảng; đổi mới phong cách lãnh đạo, phương thức,
nguyên tắc, đường lối công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển
đổi số trong hoạt động của Đảng.
Trung ương thống nhất đánh giá
việc bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng là vấn đề rất lớn, hệ trọng, cần được chuẩn
bị hết sức thận trọng, khoa học, nghiên cứu bài bản, kỹ lưỡng và tiến hành đồng
thời với việc nghiên cứu, bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Đảng khi Đảng ta
tròn 100 năm thành lập. Cơ bản các nội dung của Điều lệ Đảng hiện hành phù hợp
với thực tiễn; các quy định, hướng dẫn của Trung ương cụ thể, thuận lợi trong
thi hành, bảo đảm vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đáp ứng yêu cầu công
tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong tình hình mới. Các vướng
mắc, bất cập trong thi hành Điều lệ Đảng có thể được giải quyết, khắc phục
thông qua việc bổ sung, sửa đổi các văn bản, quy định hướng dẫn của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trung ương thống nhất chủ trương
chưa bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội XIV; trên cơ sở tổng kết công
tác thi hành Điều lệ Đảng, đề nghị Đại hội XIV giao Ban Chấp hành Trung ương
khoá XIV chỉ đạo các cơ quan chức năng tiếp tục triển khai nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn thi hành Điều lệ Đảng ngay từ đầu nhiệm kỳ để báo cáo cấp có thẩm
quyền xem xét, đề xuất bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng vào thời điểm phù hợp.
2.3. Trung ương tán thành
các nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung Quy chế bầu cử trong Đảng; thống nhất
giao Bộ Chính trị chỉ đạo tiếp thu ý kiến của Trung ương, hoàn chỉnh để kịp
thời ban hành.
2.4. Về phương
hướng công tác nhân sự: Trung ương thống nhất với Tờ trình, Báo cáo tổng kết
công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII và xây dựng phương
hướng nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIV, giao Tiểu ban Nhân sự
nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Trung ương, hoàn chỉnh Phương hướng công tác
nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV để ban hành theo quy định.
2.5.
Trung ương thống nhất cao, cơ bản đồng tình với báo cáo kinh tế – xã hội, thu chi
ngân sách nhà nước năm 2024 và định hướng phát triển kinh tế – xã hội 2025.
2.6.
Trung ương thống nhất chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc –
Nam, xác định đây là nhiệm vụ chính trị và ưu tiên nguồn lực đầu tư thực hiện
sớm; thống nhất chủ trương thành lập thành phố Huế trực thuộc Trung ương và một
số vấn đề quan trọng khác.
Như vậy, Hội nghị lần thứ X Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã hoàn thành chương trình đề ra và thành
công rất tốt đẹp, Tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá XIII. Chúc các đồng chí sức khoẻ, hạnh phúc, thành công,
lãnh đạo cấp uỷ, đơn vị mình thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 10, tập trung cao nhất các công việc “về đích” để thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng và các công việc chuẩn bị tốt nhất cho Đại hội XIV
của Đảng; các Tiểu ban tập trung hoàn thiện, bảo đảm cao nhất chất lượng Văn
kiện phục vụ thảo luận tại Đại hội Đảng các cấp, lấy ý kiến của cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
Xin trân
trọng cảm ơn!