Nhận diện ‘điểm nghẽn’ cản trở kết quả nghiên cứu khoa học ra thị trường
Theo Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định, việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản hình thành từ các nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước rất quan trọng. Trên thực tế, hiện vẫn còn một số điểm nghẽn và nếu không được xử lý kịp thời, đồng bộ, các tài sản hình thành từ nhiệm vụ nghiên cứu của nhà khoa học sẽ không thể đưa vào ứng dụng rộng rãi.
Bày tỏ quan điểm về vấn đề này, PGS. TS Trần Quốc Bình, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) nêu thực tế vướng mắc nhất ở hai từ “thất thoát và định giá”. Ông cho biết với việc định giá đất đai, bất động sản khá dễ vì có thông tin rõ ràng với sai số 15% trong mức chấp nhận được.
“Nhưng với tài sản công, mức 15% được coi là vi phạm. Trong khi đó tài sản hình thành từ nhiệm vụ khoa học công nghệ là vấn đề mới, do đó rất khó trong việc định giá” – ông nói.
PGS. TS Vũ Đức Lợi, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST) cho biết, thực tế tại Viện hiện có nhiều công nghệ, đề tài liên quan ngân sách nhà nước, doanh nghiệp nhưng không chuyển giao được. Lý do vướng về định giá công nghệ và chia sẻ lợi nhuận.
Trong khi đó cũng công việc tương tự, khi thực hiện chuyển giao với phía KIST (Hàn Quốc) việc thực hiện theo thông lệ rất nhanh chóng. Họ định giá theo tiêu chí coi sản phẩm công nghệ như một đề tài cụ thể để hội đồng đánh giá tính chi phí, gọi là giá cơ sở để chuyển giao.
Ảnh minh hoạ
Ông Vũ Đức Lợi cho rằng tài sản hình thành từ triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ chủ yếu vướng liên quan đến công nghệ, dùng để chuyển giao cho doanh nghiệp, do đó việc tiếp cận dựa theo định giá cơ sở (giá sàn) là cần thiết. Ví dụ như cách tiếp cận của Hàn Quốc là xây dựng giá cơ sở, đưa trang web để đơn vị có nhu cầu trả giá cao nhất để sở hữu. Hay theo thông lệ quốc tế của Mỹ, việc định giá thực hiện theo ba tiêu chí gồm tiêu chuẩn đánh giá doanh nghiệp dựa trên cách tiếp cận thu nhập, thị trường và chi phí.
Một số nhà khoa học cũng nêu bất cập khác, trong đó phương pháp xác định giá trên tổng hợp các chi phí triển khai nhiệm vụ là chưa phù hợp do còn có đóng góp quan trọng của “chất xám”. Đây là chi phí khó định lượng. Do đó hiện nay khó tìm được cơ quan có khả năng thẩm định giá tài sản từ nhiệm vụ, gây ra khó khăn trong thương mại hóa.
Theo PGS. Phí Quyết Tiến, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, việc phân chia lợi nhuận thu được từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ tạo bằng ngân sách nhà nước chưa tạo động lực cho các tác giả thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Ông kiến nghị có cơ chế hỗ trợ tác quyền, tác giả chuyển giao và cơ quan chủ trì. Về kinh phí định giá, PGS Tiến cũng đưa ra sáng kiến hợp đồng 3 bên, trong đó có thêm góp mặt của Viện định giá, đơn vị thụ hưởng tương lai cùng tham gia nhằm tháo gỡ cho doanh nghiệp và nhà khoa học.
PGS. TS Trần Quốc Bình đề xuất ba giải pháp. Một là, coi việc đầu tư các dự án như một khoản tài trợ chứ không phải đầu tư để thu hồi vốn, tức là chấp nhận độ rủi ro. Ở đó tài sản trí tuệ chuyển giao cho doanh nghiệp được thu hồi gián tiếp qua cơ chế thuế. Hai là, ở cấp độ thấp hơn là không bán tài sản trí tuệ hình thành mà sử dụng cơ chế cho quyền sử dụng, thu % doanh thu từ tài sản đó. Tức là bán được bao nhiêu nộp doanh thu ngược lại để thị trường tự định giá (cách này Đại học Quốc gia Hà Nội đang sử dụng). Ba là, nếu thực hiện định giá cần có mức sàn chung áp dụng khi thuyết minh đề tài dự án, để tránh vi phạm liên quan thủ tục định giá, cấu kết lợi ích.
Bảo Bình