Người Việt sống lâu nhưng không khỏe
Người Việt sống lâu nhưng không khỏe
Bình quân mỗi người cao tuổi có 3 bệnh, đối diện với nguy cơ tàn phế do quá trình lão hóa, chi phí điều trị lớn.
Trong báo cáo về tình hình thực hiện công tác dân số 6 tháng đầu năm 2022 của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế có đề cập đến một thực trạng là tuổi thọ trung bình của người Việt đã tăng cao (73,5 tuổi) nhưng số năm sống khỏe mạnh lại thấp hơn so với nhiều quốc gia, chỉ khỏe mạnh đến 64 tuổi, đặc biệt có 67,2% người cao tuổi có tình trạng sức khỏe yếu và rất yếu.
Bình quân mỗi người cao tuổi có 3 bệnh, đối diện với nguy cơ tàn phế do quá trình lão hóa, chi phí điều trị lớn. Người cao tuổi đối diện với gánh nặng “bệnh tật kép” và thường mắc các bệnh mạn tính như mạch vành, tăng huyết áp, tiểu đường, thoái hóa khớp, ung thư… Ngoài ra còn các hội chứng đặc trưng ở người già như suy giảm nhận thức, lú lẫn, trầm cảm, suy giảm trí nhớ…
Hình mẫu cho “xã hội già”
Giới hưu trí mỗi khi có dịp gặp nhau đều nói chỉ mong sao “sống khỏe, chết nhanh”. Chết nhanh thì dễ hiểu rồi, vì chả ai muốn bệnh tật nằm một chỗ hết năm này qua năm khác làm khổ mình và con cháu, nhưng sống khỏe cũng là điều không dễ. Khỏe ở đây không chỉ là thể chất mà còn cả tinh thần nữa. “Sinh, lão, bệnh, tử” là chuyện của cả nhân loại chứ không riêng ai. Quốc gia nào cũng phải đối mặt với chuyện dân số già (sớm hay muộn) và đời sống của người già. Nếu biết tổ chức tốt thì người già không phải là gánh nặng quốc gia. Thực tế cho thấy nhiều quốc gia đã thành công trong việc xây dựng một xã hội già như Nhật Bản, Singapore và các nước Bắc Âu.
Nhật Bản là quốc gia có dân số già, nơi mà người già nhiều hơn trẻ em. Ý thức được điều này, Nhật Bản đã chủ động đón xã hội già từ những năm 70 của thế kỷ XX. Họ chuẩn bị tâm lý, dư luận xã hội, xây dựng các quy định pháp lý và một hệ thống cơ sở vật chất hoàn thiện cho xã hội chuyển dần sang già hóa từ mỗi gia đình đến nơi công cộng, từ cơ quan hành chính đến mọi ngõ ngách đời sống. Trong các chung cư cao tầng, trung tâm thương mại bao giờ cũng có một thang máy tốc độ chậm, bậc thang bộ chỉ cao 10-12 cm, xe mua hàng của siêu thị có thể nới ra thành ghế ngồi nghỉ, có đường dành riêng cho xe biển vàng (xe của người già), không gian công cộng chỗ nào cũng có ghế ngồi nghỉ chân; cột đèn giao thông nào ở ngã ba, ngã tư cũng có nút bấm ưu tiên qua đường…
Nói cách khác là họ có hẳn một nền kinh tế, một hệ thống hạ tầng, một nền sản xuất phục vụ người già và quan trọng hơn là họ xây dựng một hệ thống cư trú riêng cho người già nhằm đảm bảo nuôi dưỡng được người già nhưng không ảnh hưởng đến sản xuất và vận hành nền kinh tế đứng thứ ba thế giới. Đó là hệ thống nhà dưỡng lão chất lượng cao.
Việt Nam có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới!
Năm 2011, người cao tuổi Việt Nam chiếm 10% tổng số dân, đến năm 2035 tỷ lệ này sẽ đạt 20%, tức chỉ còn 13 năm nữa nước ta chính thức trở thành quốc gia già. Có thể nói Việt Nam là quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới (ở Mỹ phải mất 69 năm, Úc 73 năm, Thụy Điển 85 năm, Pháp mất 115 năm). Ngoài chuyện già hóa nhanh thì người già Việt Nam có chất lượng sức khỏe thấp. Hiện tuổi thọ trung bình của người Việt ở mức cao, trên 73 tuổi, nhưng số năm khỏe mạnh chỉ được 64 năm và mỗi người già mắc ít nhất 3 bệnh. Phụ nữ có trung bình 11 năm sống trong bệnh tật, trong khi ở nam giới khoảng 8 năm.
Trong bối cảnh như thế Việt Nam vẫn còn “bình chân như vại”, hầu như chưa có chuẩn bị gì để đón đợi “làn sóng bạc” ập đến nay mai. Hình như các thể chế chính trị – xã hội cho rằng chỗ dựa của người già Việt Nam là gia đình, dòng họ, làng mạc theo kiểu “trẻ cậy cha, già cậy con” nên chưa có sự chuẩn bị gì từ chính sách đến lộ trình hiện thực hóa. Cả nước mới chỉ có một bệnh viện lão khoa thành lập năm 2016 với quy mô rất khiêm tốn, không trường đại học nào có khoa lão, chưa có cơ sở nào đào tạo chuyên ngành điều dưỡng phục vụ người già.
Hiện nay Việt Nam đang thiếu bác sĩ chuyên lão khoa, điều dưỡng có kinh nghiệm và hệ thống viện dưỡng lão. Nguồn nhân lực chăm sóc người già chủ yếu dựa vào người nhà và chưa có những cơ sở chuyên biệt dành cho người già. Trong số 63 tỉnh, thành của cả nước, chỉ 32 tỉnh có viện dưỡng lão. Mặc dù Chính phủ đặt mục tiêu có ít nhất một viện ở mỗi tỉnh vào năm 2025, nhưng điều này không thể thực hiện được vì rất nhiều lý do.
Đơn cử TP.HCM có hơn 600.000 người cao tuổi, tỷ lệ già hóa dân số tăng nhanh, trong khi tỷ lệ sinh thấp nhất nước (1,39 con). TP.HCM là nơi được coi là giàu có nhất nước nhưng lại là nơi chuẩn bị cho một xã hội già chậm nhất nước, nhất là việc “đảm bảo sống khỏe”. Một nghiên cứu thực hiện năm 2018 cho thấy hơn 95% người già TP.HCM bó gối ở nhà xem tivi, ra đường thì sợ tai nạn giao thông, hoặc chẳng biết đi đâu vì nơi ở không có chỗ dành riêng cho người già như công viên, nhà văn hóa, tụ điểm vui chơi. Sang nhà hàng xóm thì không được vì ở Sài Gòn ai biết nhà nấy.
Trái lại ở Hà Nội có lẽ còn ảnh hưởng văn hóa làng xã nên các cụ hay la cà nhà này nhà khác, sáng tập dưỡng sinh; cuối tuần tụ họp sinh hoạt trong các câu lạc bộ thơ, ca múa hát, làm bánh trái, đan lát, giao lưu… Thêm nữa, vùng đất Bắc có nhiều lễ hội, chùa chiền, danh lam thắng cảnh nên các cụ hưu trí còn khỏe chân khỏe tay, kinh tế tạm ổn thường tổ chức hành hương khắp nơi.
Đừng để quá muộn
Trong bối cảnh Việt Nam, để chuẩn bị đón nhận xã hội già và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người già, Nhà nước cần nghiên cứu kỹ lưỡng mọi khía cạnh, bởi nếu không nghiên cứu kỹ sẽ dẫn đến hệ quả là ra đời các chính sách đối phó ngắn hạn và bị động. Đặc biệt là cần nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia thành công như Nhật Bản, Singapore. Cần xúc tiến thành lập các lão khoa, các viện, trung tâm nghiên cứu ở các trường đại học nhằm đào tạo các chuyên gia giỏi về lĩnh vực này. Tương tự, cần đào tạo số lượng lớn điều dưỡng viên chuyên chăm sóc người già ở các viện dưỡng lão tập trung và làm việc ở các gia đình theo nhu cầu như Singapore đã làm.
Các viện dưỡng lão cần diện tích lớn để có đủ các khu chức năng (cư trú, ăn ngủ, chăm sóc y tế, vật lý trị liệu phục hồi sức khỏe, thư giãn, công viên cây xanh, hậu sự…), phải gần các bệnh viện lớn và không quá xa các trung tâm thành phố để con cháu có điều kiện tới thăm. Do đó quy hoạch đô thị cần dành đất cho các viện dưỡng lão. TP.HCM không có chủ trương dành đất cho viện dưỡng lão nên rất có thể những khu dưỡng lão diện tích 10 ha như Phương Đông Asahi sau này nếu được xây dựng phải lên tận Bình Dương hay Đồng Nai.
Đặc biệt, cần xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và quỹ hưu trí làm sao để người trẻ bắt đầu tích lũy từ khi mới đi làm (21 tuổi) cho đến khi nghỉ hưu (60-65 tuổi) thì đủ tài chính vào sống trong nhà dưỡng lão ở mức trung bình (7-10 triệu đồng/ tháng) mà không phụ thuộc con cái.
13 năm là một thời gian rất ngắn, coi chừng TP.HCM và nhiều nơi khác trở tay không kịp khi “làn sóng bạc” ập tới.
Viện dưỡng lão “5 sao”
Mới đây, ngày 12.7, Công ty TNHH Tổ hợp Y tế Phương Đông khởi công xây dựng Viện Dưỡng lão Phương Đông Asahi trên mảnh đất rộng 10 ha với tổng mức đầu tư gần 800 tỷ đồng tại quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Cơ sở này mô phỏng phong cách Nhật Bản từ kiến trúc, cảnh quan đến phương thức hoạt động, cơ chế quản lý và toàn bộ trang thiết bị nhập từ Nhật.
Một nhà dưỡng lão “5 sao” ra đời giữa trung tâm Hà Nội đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều. Nhưng dù sao thì đó là tín hiệu cho thấy các tỉnh phía Bắc đã có động thái chuẩn bị tốt hơn các tỉnh phía Nam. Hà Nội và các tỉnh lân cận hiện có hơn 30 viện, nhà dưỡng lão, trong đó có nhiều viện dưỡng lão đạt chuẩn quốc gia như Orihome, Viện Bách niên Thiên Đức, Viện Dưỡng lão Vạn Phúc, Trung tâm Dưỡng lão Diên Hồng…
Còn TP.HCM hiện có hơn 10 viện, trung tâm dưỡng lão, nhưng hầu hết là các nhà tình thương, nhân đạo, chưa nơi nào mang tính chuyên nghiệp; nơi tốt nhất là Viện Dưỡng lão Củ Chi, nhưng so với các địa điểm ở Hà Nội chỉ đạt mức trung bình.
TS. Nguyễn Minh Hòa
Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị