Nâng cao chất lượng mỹ phẩm sản xuất trong nước

Theo TS. Chu Quốc Thịnh, Trưởng phòng Quản lý mỹ phẩm (Cục Quản lý Dược – Bộ Y tế), quy mô thị trường mỹ phẩm Việt Nam đang ngày càng lớn, tốc độ tăng trưởng trung bình là 6%/năm, từ 2 tỉ USD năm 2016 lên đến gần 2,7 tỉ USD năm 2021 và dự đoán đến năm 2026, tổng doanh thu ngành hàng mỹ phẩm lên tới 3,5 tỉ USD. Điều này cho thấy thị trường mỹ phẩm Việt Nam đang trở thành thị trường nhiều tiềm năng và sức hút.

Theo dữ liệu thống kê, số phiếu công bố sản phẩm mỹ phẩm được công bố tại Cục Quản lý Dược và các Sở Y tế trong 8 năm từ 2015-2022, tổng số Phiếu công bố sản phẩm mỹ phẩm là 296.116 phiếu, trong đó mỹ phẩm nhập khẩu chiếm 70% về số lượng.

Theo TS. Thịnh, các doanh nghiệp mỹ phẩm Việt Nam hiện nay chỉ có thể trụ lại ở phân khúc giá rẻ bởi nhà đầu tư ngoại đang hướng về Việt Nam với nhiều dự án sản xuất và mở rộng hệ thống phân phối mỹ phẩm. Các thương hiệu mỹ phẩm Việt đang rơi vào tình trạng bị thu hẹp đáng kể thị phần tiêu thụ. Thêm vào đó, ngành mỹ phẩm đang phải đối mặt với nhiều yêu cầu về môi trường, an toàn và chất lượng sản phẩm.

Ngoài ra, việc xuất hiện ngày càng nhiều thương hiệu mỹ phẩm mới trên thị trường dẫn đến cạnh tranh mạnh khốc liệt và khó khăn hơn để giữ chân khách hàng. Chưa kể tới việc thị trường còn xuất hiện sản phẩm mỹ phẩm không rõ nguồn gốc, đặc biệt các sản phẩm này được kinh doanh trên các sàn thương mại điện tử, nền tảng thương mại (zalo, Facebook…) khiến khách hàng ngày càng khó khăn hơn trong việc lựa chọn sản phẩm an toàn và chất lượng.

 Ảnh minh hoạ.

Các chuyên gia dự báo, năm 2024 và những năm tiếp theo thị trường mỹ phẩm tại Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển và tăng trưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, để phát triển, doanh nghiệp cần chú trọng đến chất lượng sản phẩm, tính bền vững, đổi mới công nghệ và tiếp cận khách hàng thông qua các kênh trực tuyến. Đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh và duy trì sự linh hoạt, thay đổi phù hợp để đáp ứng nhu cầu khách hàng.

Đối với các thương hiệu mới muốn gia nhập thị trường, nên tập trung vào việc xây dựng lòng tin và tạo dựng uy tín trong mắt khách hàng bằng cách sử dụng nguyên liệu tự nhiên, thành phần an toàn, bảo vệ sức khỏe cho người dùng. Đồng thời, việc đưa ra thông tin chính xác về sản phẩm, lợi ích của nó cũng là yếu tố quan trọng trong thu hút khách hàng. Hiện nay, xu hướng thị trường đang chuyển đổi sang sản phẩm organic, sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên. Vì vậy, các thương hiệu cần tìm cách cập nhật và phát triển sản phẩm của mình để đáp ứng được nhu cầu này…

Cũng theo TS Thịnh, để tăng cường quản lý thị trường quản lý mỹ phẩm, Cục Quản lý Dược đang làm đầu mối phối hợp các Vụ, Cục liên quan thuộc Bộ Y tế xây dựng Nghị định quản lý mỹ phẩm. Bộ hồ sơ đề xuất Nghị định các trong quá trình xin ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp và dự kiến ban hành trong năm 2025.

Việc xây dựng, ban hành Nghị định này nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về chính sách, pháp lý cũng như để giải quyết vấn đề phát sinh trong thực tiễn, trong bối cảnh thị trường mỹ phẩm Việt Nam ngày một gia tăng về quy mô, chủng loại mặt hàng và hình thức kinh doanh mới phát sinh (thương mại điện tử) hướng đến thực hiện mục tiêu cắt giảm và đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quản lý mỹ phẩm;

Cùng đó, nâng cao chất lượng mỹ phẩm sản xuất trong nước nhằm tăng tính cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập đồng thời tăng tính an toàn của sản phẩm mỹ phẩm lưu thông trên thị trường Việt Nam, tăng khả năng tiếp cận các sản phẩm mỹ phẩm an toàn chất lượng của người dân. Có 3 nội dung chính sách dự kiến tại Nghị định này, cụ thể:

Thứ nhất, tăng cường quy định về công bố sản phẩm mỹ phẩm để bảo đảm thống nhất trong việc xem xét công bố tính năng, công dụng sản phẩm mỹ phẩm phù hợp với thông lệ quốc tế và Hiệp định hòa hợp mỹ phẩm ASEAN. Chính sách này nhằm quy định chặt chẽ khâu tiền kiểm bằng việc quy định chặt chẽ hồ sơ công bố mỹ phẩm về tính năng, công dụng và quản lý cơ sở sản xuất tại nước ngoài.

Thứ hai, tăng cường công tác hậu kiểm về quản lý mỹ phẩm phù hợp xu thế cách mạng 4.0 và đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước về mỹ phẩm; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đồng thời bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng.

Chính sách nhằm tăng cường công tác hậu kiểm bằng việc xây dựng dữ liệu quốc gia về quản lý mỹ phẩm, giải quyết các thủ tục hành chính mỹ phẩm từ trung ương đến địa phương trên hệ thống dịch vụ công và nâng cao vị thế cơ quan thực thi pháp luật mỹ phẩm; Tăng cường quản lý chất lượng mỹ phẩm, xác định nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm thông qua điều chỉnh hoạt động kinh doanh và thu hồi thuốc trực tuyến và xây dựng mã định danh mỹ phẩm; Cắt giảm đơn giản hóa thủ tục hành chính về hoạt động quảng cáo mỹ phẩm và bổ sung hình thức gia hạn phiếu công bố mỹ phẩm, đơn giản hóa thủ tục này so với công bố mới do hết hạn hiệu lực số phiếu công bố.

Thứ ba, nâng cao chất lượng mỹ phẩm sản xuất trong nước thông qua việc áp dụng CGMP-ASEAN và lộ trình triển khai.

Bảo Lâm

Nguồn: Tạp chí điện tử chất lượng Việt Nam

Bạn cũng có thể thích