Một triệu hecta lúa chất lượng cao: Xây dựng hình ảnh ngành lúa gạo Việt “minh bạch, trách nhiệm, bền vững”

1
Xây dựng hình ảnh ngành lúa gạo Việt “minh bạch, trách nhiệm, bền vững”.

Sản xuất lúa gạo đã có những thành tựu đột phá, tuy nhiên, người nông dân vẫn đối mặt với những áp lực về giá cả bấp bênh. Ngành hàng lúa gạo vẫn tồn tại những hạn chế cần khắc phục, nhằm hướng tới sản xuất bền vững và hiệu quả.

Mặt khác trong thời gian gần đây, yêu cầu của thị trường ngày càng cao, quy định của các nước nhập khẩu ngày càng nghiêm ngặt, đòi hỏi chất lượng gạo phải được nâng cao, phải bảo đảm an toàn thực phẩm, trong đó có việc giảm thiểu sử dụng đầu vào sản xuất có nguồn gốc hóa học, sản xuất giảm phát thải. Bên cạnh đó, tại COP26, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký cam kết phấn đấu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Trước bối cảnh trên, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”.

Cách làm đầu tiên trên thế giới

Xuất khẩu gạo Việt Nam vừa thiết lập kỷ lục mới và cùng với đó, Việt Nam đã có ngay Đề án “Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.”

Vùng chuyên canh này là cách làm đầu tiên trên thế giới, giúp thay đổi tư duy gắn sản xuất lúa gạo với bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đề án không chỉ từng bước hiện đại hóa ngành sản xuất lúa gạo cả nước, mà còn hướng theo sản xuất xanh, giảm phát thải, chất lượng cao để trở thành thương hiệu của lúa gạo Việt Nam.

Kiên Giang là tỉnh có diện tích sản xuất lúa lớn nhất cả nước, với tổng diện tích gieo trồng hàng năm khoảng 700.000 ha, sản lượng thu hoạch hơn 4,4 triệu tấn/năm. Mô hình cánh đồng lớn sản xuất lúa đạt chuẩn quy trình thực hành nông nghiệp tốt, sản xuất hữu cơ, mã vùng trồng gắn với truy xuất nguồn gốc được tỉnh tập trung thực hiện.

Tỉnh đã xây dựng trên 700 cánh đồng lớn, với trên 80.000 ha; gồm 27.000 ha lúa đạt chuẩn SRP, GloabalGAP, VietGAP phục vụ xuất khẩu sang EU, Nhật Bản, Mỹ, Malaysia, Singapore, Canada… Tỉnh đăng ký tham gia đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh ĐBSCL đến năm 2030, với diện tích 200.000 ha.

Tại Đồng Tháp, tỉnh cũng triển khai đề án, phấn đấu đạt diện tích canh tác vùng chuyên canh lúa chất lượng cao trong năm 2024 khoảng 20.000 ha từ vụ hè thu năm 2024, đến năm 2025 sẽ phát triển diện tích lên 50.000 ha và đến năm 2030 là 161.000 ha. Lúa gạo là một trong những ngành hàng trọng tâm của đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp địa phương.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Đồng Tháp Lê Quốc Điền cho biết, diện tích sản xuất lúa mỗi năm của tỉnh dao động khoảng 480.000 – 500.000 ha, đạt sản lượng ước tính trên 3,3 triệu tấn. Hơn 2 tháng đầu năm 2024, tình hình sản xuất, tiêu thụ của ngành hàng lúa gạo ở Đồng Tháp tiếp tục có tín hiệu khả quan.

Cùng với việc quan tâm sản xuất theo hướng giống lúa chất lượng cao, đảm bảo an toàn thực phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu, nông dân đã thực hiện các giải pháp giảm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, như áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, sạ hàng, sạ thưa; cơ giới hóa… Nhờ vậy, tỉnh được đánh giá là một trong những địa phương có giá thành sản xuất lúa thấp ở ĐBSCL. Đây là tiền đề để đề án 1 triệu ha trồng lúa chất lượng cao tại đất Chín Rồng thành công trong tương lai.

Chuyên nghiệp hóa ngành hàng lúa gạo

2
Bộ trưởng Lê Minh Hoan. Ảnh: Tùng Đinh.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao và phát thải thấp, gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030 đặt ra mục tiêu tăng trưởng tích hợp đa giá trị, gắn với mô hình tăng trưởng xanh, nông nghiệp tuần hoàn, theo chuỗi ngành hàng và khắc phục tính manh mún, nhỏ lẻ, tự phát trong sản xuất, kinh doanh lúa gạo vùng ĐBSCL; đồng thời, tạo dựng hình ảnh ngành hàng lúa gạo Việt “minh bạch, trách nhiệm, bền vững”.

Người đứng đầu ngành nông nghiệp cho rằng, để khắc phục tính phân mảnh, manh mún, nhỏ lẻ, tự phát trong sản xuất, kinh doanh lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đề án xác định yêu cầu tiên quyết: “chuyên nghiệp hóa ngành hàng lúa gạo”, thông qua việc hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, cập nhật tri thức, kỹ năng cho nông dân, nâng cao năng lực quản trị, khả năng hợp tác của những tổ chức nông dân, hợp tác xã nông nghiệp, đủ năng lực liên kết bền vững với doanh nghiệp.

Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, Đề án phác thảo “bức tranh” phát triển tổng thể hơn, bao trùm hơn. Nhiều cơ hội việc làm được tạo ra, thu nhập cho người trồng lúa được cải thiện, nhờ những ngành nghề đa dạng, bổ trợ nhau trong khu vực kinh tế nông thôn. Nhờ vào các hình thức hợp tác, liên kết, nhờ vào các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước, doanh nghiệp, các nhà tài trợ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, người trồng lúa có thể tham gia tích cực hơn, chủ động hơn vào chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo ở những công đoạn phù hợp.

Bên cạnh đó, tiếp cận đồng bộ các cơ chế chính sách như Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết 120 về phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Đề án tập trung vào các giải pháp liên kết ngành hàng lúa gạo trong vùng. Từ không gian liên kết cấp vùng, hình thành các cụm liên kết ngành lúa gạo, xây dựng các trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp cấp huyện, liên huyện, cấp vùng.

Các trung tâm này có chức năng khuyến nông, đặc biệt là thông qua các Tổ Khuyến nông Cộng đồng, hỗ trợ nông dân tiếp cận cơ giới hoá, hướng dẫn ứng dụng chuyển đổi số, quảng bá, kết nối thị trường, kiến thức kinh tế xanh, nông nghiệp tuần hoàn, kỹ năng giúp nâng cao năng suất lao động.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan cho rằng, Đề án mong muốn tạo dựng hình ảnh một ngành hàng lúa gạo “minh bạch, trách nhiệm, bền vững”. Đề án không chỉ nhận được sự quan tâm lớn lao của bộ, ngành trung ương và địa phương, các tổ chức, đối tác quốc tế, mà còn hàng triệu bà con nông dân trồng lúa, hợp tác xã, cộng đồng doanh nghiệp ngành hàng lúa gạo.

Bộ trưởng nhấn mạnh, để Đề án đạt được hiệu quả thực tế trên những cánh đồng, cần đến cách thức tiếp cận “ngoài khung”, ngoài những cách nghĩ, cách làm quen thuộc. Cần đến sự đổi mới linh hoạt, chủ động, không ngừng từ thể chế, các vấn đề mang tính nguyên tắc, đến từng nội dung quản trị, vận hành cụ thể, chi tiết.

Hơn hết, cần thấu hiểu rằng Đề án không chỉ mang yếu tố kỹ thuật đơn thuần, mà tích hợp đa dạng yếu tố kinh tế, xã hội, trong đó người nông dân có năng lực hợp tác là trung tâm; doanh nghiệp có vai trò liên kết, kết nối dẫn dắt thị trường; các chuyên gia, nhà khoa học khuyến nghị, hướng dẫn ứng dụng chuẩn hóa, Nhà nước vai trò khởi tạo và hỗ trợ bằng cơ chế chính sách; địa phương có vai trò tích hợp, lồng ghép các nguồn lực và nhất là sáng tạo trong triển khai thực hiện.

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Trần Thanh Nam, Đề án sẽ được triển khai đồng loạt với các giống lúa xác nhận, sản xuất theo hướng đa giá trị. Điều này không những đảm bảo an ninh lương thực và đảm bảo vùng nguyên liệu cho chế biến công nghiệp và dinh dưỡng cho người tiêu dùng mà còn đảm bảo thu nhập cho người nông dân. Thực hiện đề án sẽ xây dựng được thương hiệu lúa gạo giảm phát thải để nâng cao giá trị hạt gạo Việt.

Đề án được triển khai tại 12 tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, giai đoạn 1 (2024 – 2025) sẽ tập trung củng cố các diện tích đã có của Dự án chuyển đổi Nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSAT) là 180.000 héc ta, bao gồm công tác tập huấn, xây dựng kế hoạch, xây dựng hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, kiểm đếm và thí điểm cấp tín chỉ các-bon cho những vùng lúa đạt chuẩn, củng cố các hợp tác xã, duy tu bảo dưỡng một số công trình và chuẩn bị kế hoạch cho giai đoạn 2026 – 2030.

Giai đoạn 2 (2026 – 2030) xác định cụ thể khu vực trọng tâm để lập dự án đầu tư phát triển vùng lúa chuyên canh chất lượng cao giảm phát thải mới ngoài vùng Dự án VnSAT và sẽ mở rộng thêm 820.000 ha. Giai đoạn này sẽ tập trung vào các hoạt động chủ yếu như đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho những vùng diện tích mới, tổ chức lại sản xuất, xây dựng chuỗi giá trị.

 Theo Thương Hiệu Và Sản Phẩm

Nguồn: Báo doanhnghiepthuonghieu

Bạn cũng có thể thích