Một số rào cản và giải pháp để doanh nghiệp tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt
Một số rào cản và giải pháp để doanh nghiệp tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt
Hiện nay có nhiều vấn đề tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH). Cần phải xác lập được cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tham gia của doanh nghiệp trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
Hiện nay có nhiều vấn đề tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH). Lượng CTRSH phát sinh cần được quản lý rất lớn và gia tăng nhanh; phương thức quản lý tổng hợp CTRSH chưa đạt kết quả mong muốn; thực hiện các quy hoạch CTR gặp nhiều khó khăn do các quy định pháp luật chưa phù hợp; hầu hết chưa được phân loại tại nguồn; Cơ sở hạ tầng, thiết bị, phương tiện thiết yếu phục vụ thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH và nhân lực cần thiết chưa đáp ứng được thực tế, nhiều bất cập…).
Căn cứ thực tế quản lý nhà nước về CTRSH cần phải: Xác lập được cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tham gia của doanh nghiệp trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Đề xuất được các giải pháp về cơ chế chính sách phù hợp thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
Khái quát chính sách, pháp luật về doanh nghiệp tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt
Chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
Dưới đây là các văn bản quy định có liên quan đối với doanh nghiệp tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt:
– Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 13/6/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT.
– Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 ngày 17/11/2020 có hiệu lực từ 01/01/2022.
– Luật doanh nghiệp số 59/2020/QH14 ngày 17/06/2020 có hiệu lực từ 01/01/2021.
– Quyết định 450/QĐ-TTg ngày 13/4/2022 phê duyệt Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
– Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050.
– Quyết định số 192/QĐ-TTg ngày 13/2/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển ngành công nghiệp dịch vụ môi trường Việt Nam đến năm 2025 2.1. Chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước có liên quan.
– Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 13/6/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT.
– Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 ngày 17/11/2020 có hiệu lực từ 01/01/2022.
– Luật doanh nghiệp số 59/2020/QH14 ngày 17/06/2020 có hiệu lực từ 01/01/2021.
– Quyết định 450/QĐ-TTg ngày 13/4/2022 phê duyệt Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
– Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050.
– Quyết định số 192/QĐ-TTg ngày 13/2/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển ngành công nghiệp dịch vụ môi trường Việt Nam đến năm 2025.
– Quyết định số 1570/QĐ-TTg ngày 09/8/2016: Chương trình hỗ trợ chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp tái sử dụng, tái chế hoặc thu hồi năng lượng, sản xuất phân bón từ chất thải.
– Nghị định số 08/NĐ-CP ngày 10/01/2022 Quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường (LBVMT).
– Nghị định số 45/2022/NĐ-CP ngày 07/7/2022, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường, Nghị định 45/2022/NĐ-CP có hiệu lực từ 25/8/2022 và thay thế Nghị định 155/2016/NĐ-CP, Nghị định 55/2021/NĐ-CP.
– Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022 quy định chi tiết thi hành một số điều của LBVMT.
– Các văn bản pháp lý khác có liên quan.
– Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật liên quan các công trình quản lý CTRSH (thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH…).
Chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước có liên quan coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững; kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, nhất là các nguồn vốn ưu đãi cho ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và BVMT. Thực hiện chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tham gia BVMT.
Huy động đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách, các quy định về đấu thầu dịch vụ công ích về môi trường. Triển khai mạnh mẽ các hình thức đối tác công tư (PPP), đẩy mạnh sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân, thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong BVMT.
Quản lý tổng hợp chất thải rắn là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó Nhà nước có vai trò chủ đạo, được thực hiện trên cơ sở tăng cường đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa. XHH quản lý CTRSH là mục tiêu của chiến lược quản lý tổng hợp CTR.
Xây dựng lộ trình, kế hoạch và triển khai cổ phần hóa các DNNN quản lý CTRSH. Thúc đẩy triển khai đầu tư xây dựng các dự án đầu tư xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo hình thức đối tác công tư (PPP) phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của từng địa phương.
Những quy định quản lý CTRSH trong Luật BVMT 2020, Mục 2: Quản lý chất thải rắn sinh hoạt (các quy định từ điều 75 đến 80 về Phân loại, lưu giữ, chuyển giao chất thải rắn sinh hoạt; Điểm tập kết, trạm trung chuyển chất thải rắn sinh hoạt; Thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt; Xử lý chất thải rắn sinh hoạt; Chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt; Xử lý ô nhiễm, cải tạo môi trường bãi chôn lấp CTR sinh hoạt).
Các quy định QLCTRSH tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022, Mục 2: Quản lý chất thải rắn sinh hoạt (các quy định từ điều 58 đến 64 về Quản lý chất thải rắn sinh hoạt của cơ quan, tổ chức, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp; Lựa chọn chủ đầu tư, chủ xử lý chất thải rắn sinh hoạt; Lộ trình hạn chế xử lý chất thải rắn sinh hoạt bằng công nghệ chôn lấp trực tiếp; Trách nhiệm của cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt; Quyền và trách nhiệm của cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt; Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt; Lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa).
Các quy định QLCTRSH tại thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022, Mục 2: Quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Điều 26. Yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường đối với điểm tập kết, trạm trung chuyển chất thải rắn sinh hoạt; Điều 27. Yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường đối với phương tiện vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt; Điều 28. Tiêu chí về công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt; Điều 29. Giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt; Điều 30. Hình thức thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo khối lượng hoặc thể tích chất thải; Điều 31. Phương pháp định giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng đối với nhà đầu tư và cung cấp dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt; Điều 32. Đóng bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt sau khi kết thúc hoạt động.
Một số quy định cụ thể liên quan xã hội hóa và doanh nghiệp tham gia quản lý CTRSH
Bắt buộc tuyển chọn cơ sở thu gom, vận chuyển CTRSH thông qua hình thức đấu thầu. Theo Luật BVMT 2020, UBND cấp tỉnh lựa chọn cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt thông qua hình thức đấu thầu; trường hợp không thể lựa chọn thông qua hình thức đấu thầu thì thực hiện theo hình thức đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ theo quy định của pháp luật (Luật BVMT, Điều 77; Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 63).
Việc lựa chọn chủ đầu tư cơ sở xử lý CTRSH được thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư, đầu tư công, đầu tư theo hình thức đối tác công tư, xây dựng và đấu thầu. Trường hợp cơ sở xử lý CTRSH được đầu tư ngoài ngân sách thì chủ đầu tư trực tiếp quản lý, vận hành cơ sở xử lý chất thải rắn do mình đầu tư hoặc thuê tổ chức, cá nhân khác làm chủ xử lý CTRSH. (Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, Điều 59).
Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tổ chức có CTRSH trên 300 kg/ngày phải chuyển giao CTRSH cho các đơn vị cung cấp dịch vụ. đối tượng sau: (i) Cơ sở thực hiện dịch vụ thông qua đấu thầu; (ii) Cơ sở có hợp đồng chuyển giao chất thải rắn sinh hoạt cho cơ sở vận chuyển do chính quyền địa phương lựa chọn; (iii) Cơ sở có hợp đồng chuyển giao với cơ sở tái sử dụng, tái chế, xử lý CTRSH; (iv) Cơ sở thực hiện dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải khác; (v) Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi, thủy sản hoặc sản xuất phân bón phù hợp đối với chất thải thực phẩm (Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, Điều 58).
Quy định bắt buộc phân loại tại nguồn, thu phí theo khối lượng/thể tích, thu gom, vận chuyển và xử lý riêng biệt. Các tỉnh, TP bắt buộc phải thực hiện trước 31/12/2024. tạo điều kiện các DNTN tham gia vào các công đoạn của quá trình quản lý CTRSH.
Quy định trách nhiệm thu hồi, tái chế (EPR) sản phẩm, bao bì thải bỏ. Luật BVMT 2020 và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định các nhà sản xuất, nhập khẩu phải thu gom và tái chế 6 nhóm bao bì và sản phẩm thải bỏ: (i) bao bì (bao gồm nhựa), (ii) dầu nhớt, (iii) ắc quy và pin, (iv) săm, lốp (v) sản phẩm điện, điện tử và (vi) phương tiện giao thông. Đối với hoạt động tái chế, có ba phương án để các nhà sản xuất, nhập khẩu lựa chọn: (i) tự tái chế, (ii) ký hợp đồng với công ty tái chế hoặc (iii) uỷ quyền cho tổ chức trung gian thực hiện thu gom và tái chế. Quy định này thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu, các doanh nghiệp tái chế bao bì và sản phẩm thải bỏ.
Công bố danh sách các đơn vị tái chế và được ủy quyền tổ chức tái chế. Bộ TN&MT công bố danh sách tổ chức, đơn vị tái chế và được ủy quyền tổ chức tái chế để nhà sản xuất, nhập khẩu biết, lựa chọn. Nhà sản xuất, nhâp khẩu không thuê đơn vị tái chế hoặc bên được ủy quyền khi không bảo đảm các yêu cầu theo quy định của pháp luật. (Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 79).
Quy định hạn chế công nghệ chôn lấp trực tiếp CTRSH, từ đó khuyến khích đầu tư các cơ sở xử lý CTRSH hiệp đại. Các địa phương khi đầu tư mới hoặc đưa vào vận hành các cơ sở xử lý CTRSH ưu tiên đầu tư công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường; bảo đảm giảm dần tỷ lệ CTRSH được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp đáp ứng mục tiêu về quản lý tổng hợp chất thải rắn. (Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 60). Mục tiêu này là 30% năm 2025 và 10% năm 2030 theo Chiến lược quốc gia về BVMT và Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh.
Quy định về giá dịch vụ thu gom, xử lý CTRSH. UBND cấp tỉnh quy định giá cụ thể đối với dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; chi phí xử lý và hình thức thu trên nguyên tắc chi phí xử lý CTRSH được tính đúng, tính đủ (Luật BVMT 2020 Điều, Nghị định 08/2022/NĐ-CP Điều).
Đóng góp kinh phí thúc đẩy sự tham gia của khối tư nhân trong quản lý CTRSH theo cơ chế EPR. Luật BVMT và Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm, bao bì thuộc danh mục thu hồi tái chế hoặc các sản phẩm bao bì chứa chất độc hại, khó có khả năng tái chế hoặc gây khó khăn cho thu gom, xử lý phải đóng góp tài chính để hỗ trợ các hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH (Luật BVMT 2020, Điều 54, 55).
Khoản kinh phí thu từ nhà sản xuất nhập khẩu theo cơ chế EPR và từ nhà sản xuất nhập khẩu đối với các sản phẩm khó thu gom, xử lý được dùng để hỗ trợ cho hoạt động tái chế sản phẩm bao bì theo hướng dẫn của Bộ TNMT (Điều 82, Nghị định 08/2022/NĐ-CP) cũng như hỗ trợ hoạt động xử lý chất thải (Điều 85, Nghị định 08/2022/NĐ-CP).
Một số rào cản đối với doanh nghiệp tại Việt Nam tham gia quản lý CTRSH
Ngân sách dành cho quản lý CTRSH còn khó khăn ở nhiều địa phương, quy mô phát sinh CTR nhỏ trong khi việc liên kết vùng hạn chế, nên khó thu hút các DN tư nhân với công nghệ hiện đại. Việc tổ chức lựa chọn các DN cung ứng dịch vụ thiếu công khai, minh bạch…
Các quy định pháp luật chưa được hướng dẫn rõ ràng, cụ thể để khuyến khích khối tư nhân tham gia sâu rộng hơn nữa.
Năng lực của doanh nghiệp tư nhân trong quản lý CTRSH còn hạn chế: Các tổ chức, đơn vị được nhà sản xuất, nhập khẩu thuê để thực hiện tái chế phải bảo đảm các yêu cầu BVMT (Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 79), trong khi nhiều cơ sở tái chế ở nước ta đang là cơ sở phi chính thức, quy mô hộ gia đình ở các làng nghề.
Nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước cho BVMT mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu đầu tư. Đó là chưa kể đến những bất cập trong phân bổ nguồn vốn này giữa trung ương và địa phương.
Các nhà đầu tư chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực này do lợi nhuận thấp, rủi ro cao, trong khi đó các quy định cụ thể trong chính sách chưa đủ hấp dẫn và chưa đồng bộ, đầy đủ.
Nguồn thu chính là phí vệ sinh và ngân sách Nhà nước bù đắp nên việc kêu gọi xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực quản lý CTRSH còn nhiều hạn chế: Kinh phí cho thu gom và xử lý CTRSH đô thị chủ yếu là từ nguồn ngân sách nhà nước, trong đó cho thu gom, vận chuyển chiếm tới 95%, còn lại 5% là từ nguồn khác (chủ yếu là thu phí vệ sinh môi trường từ hộ gia đình).
Tính hấp dẫn của các dự án xử lý CTRSH đô thị chưa cao do thường đòi hỏi vốn lớn, thời gian thực hiện dài, thu hồi vốn khó khăn, tính toán thu hồi phức tạp.
Các yếu tố cơ bản cho các hoạt động thị trường (cung/người bán, cầu/người mua, hàng hóa/dịch vụ, giá cả, quy định pháp lý, các dịch vụ hỗ trợ thị trường) còn rất hạn chế, chưa thật sự rõ ràng.
Một số kinh nghiệm quốc tế về doanh nghiệp tham gia quản lý CTRĐT
Rào cản
Ở nhiều nước trên thế giới cũng đang gặp phải những rào cản để doanh nghiệp tham gia quản lý chất thải rắn đô thị (QLCTRĐT). Lượng chất thải rắn đô thị toàn cầu được ước tính khoảng 2 tỷ tấn mỗi năm. Không giống như dân số thế giới và xu hướng đô thị hóa, không có dự báo nào của UN về lượng chất thải trên đầu người trong tương lai.
Ở nhiều quốc gia, QLCTRĐT thường được coi là một dịch vụ công với mức độ ưu tiên thấp: gây phiền toái và là gánh nặng. QLCTRĐT không đầy đủ gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe và môi trường và sự bất mãn của ngày càng nhiều người dân về chất lượng cuộc sống ngày càng giảm do chất thải ở các không gian công cộng ngày càng gia tăng. Mức độ liên quan của QLCTRĐT như một dịch vụ công thường bị bỏ qua và mức độ phức tạp của nó bị đánh giá thấp.
Vấn đề về năng lực của doanh nghiệp tư nhân trong quản lý CTRSH rất quan trọng khi phải đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về BVMT với công nghệ hiện đại, hạn chế chôn lấp trực tiếp, đáp ứng các tiêu chuẩn tương ứng của các quốc gia ngày càng khắt khe.
Việc chôn lấp không còn được coi là phù hợp nữa. Mặc dù vẫn có khoảng 70% của CTRĐT vẫn kết thúc tại các bãi chôn lấp hoặc bãi chất thải không được kiểm soát, điều này thường gây ô nhiễm nước mặt, nước ngầm hoặc đất và phát thải khí nhà kính. Việc tìm địa điểm bãi chôn lấp hợp vệ sinh mới thường đi kèm với các phản đối của cộng đồng và không gian cho các địa điểm mới hiếm khi có gần các khu vực đô thị hoặc trung tâm đô thị do khan hiếm đất, xung đột sử dụng đất, và giá đất tăng nhanh và thường là áp lực đối với nhiều thành phố.
Nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước cho QLCTRĐT thường không đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Các nhà đầu tư ít quan tâm đến lĩnh vực này do lợi nhuận thấp, rủi ro cao nếu các quy định cụ thể trong chính sách chưa đủ hấp dẫn đầu tư tư nhân và chưa đồng bộ, hoàn thiện.
Tính hấp dẫn của các dự án xử lý CTRSH đô thị kém các lĩnh vực khác do thường đòi hỏi vốn lớn, thời gian thực hiện dài, thu hồi vốn khó khăn, tính toán thu hồi phức tạp.
Các yếu tố cơ bản cho các hoạt động thị trường (cung/người bán, cầu/người mua, hàng hóa/dịch vụ, giá cả, quy định pháp lý, các dịch vụ hỗ trợ thị trường) ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi còn rất hạn chế, chưa thật sự rõ ràng.
Chất thải rắn đô thị hỗn hợp ở các nước đang phát triển khác về bản chất với chất thải rắn ở các nước công nghiệp và có những đặc điểm cụ thể ở mỗi thành phố. Sự đa dạng này phải được xem xét trong bất kỳ đánh giá công nghệ nào.
Kinh nghiệm
Các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDG) cũng như Chương trình Nghị sự đô thị mới của UN Habitat kêu gọi cải tiến trong các thực hành quản lý chất thải như một dịch vụ cơ bản cho người dân.
QLCTRĐT cần được tích hợp vào khái niệm của một nền kinh tế tuần hoàn.
Bãi chôn lấp là một giải pháp trung gian hoặc chuyển tiếp, nhưng vẫn cần thiết, để thải bỏ chất thải. Tuy nhiên chôn lấp không phải là mục tiêu cuối cùng của quản lý chất thải bền vững. Hệ thống QLCTRĐT nên tiếp tục ưu tiên tái chế vật liệu.
Đối với các dòng chất thải không thể tái chế cụ thể, chuyển đổi rác thành năng lượng (WtE) có thể là một giải pháp thay thế khả thi để xử lý lượng chất thải ngày càng tăng trong những năm tới nếu các tiêu chuẩn môi trường được đáp ứng và các khía cạnh xã hội được xem xét cẩn thận cũng như nhu cầu năng lượng ngày càng tăng nhanh.
WtE không thể tự nó có thể giải quyết vấn đề mà cần được gắn vào một hệ thống quản lý chất thải rắn tổng hợp phù hợp với các điều kiện cụ thể của địa phương liên quan đến thành phần chất thải, thu gom và tái chế, khu vực phi chính thức, thách thức môi trường, tài chính, giá tài nguyên, và các khía cạnh khác.
Khuyến khích giảm phát sinh chất thải và tăng cường tái chế, phân loại tại nguồn.
Gợi ý giải pháp về cơ chế, chính sách để tháo gỡ rào cản, thúc đẩy doanh nghiệp có tiềm năng tham gia quản lý CTRSH
Các giải pháp chung
Tăng cường vai trò của các cấp chính quyền địa phương qua việc kiện toàn cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực thực hiện các quy định của pháp luật về QLCTRSH theo LBVMT2020 và các văn bản liên quan.
Rà soát, bổ sung, hoàn thiện chi tiết các quy định pháp luật liên quan đến quy hoạch điểm thu gom, tập kết CTRSH và khu vực xử lý phù hợp đồng thời với chuẩn bị tốt cơ sở hạ tầng để thực thi các quy định đó.
Cụ thể hóa các quy định pháp luật nhằm khuyến khích, thúc đẩy đa dạng hóa thành phần kinh tế tham gia thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH.
Cụ thể hóa các quy định nhằm khuyến khích hộ gia đình đồng thuận hỗ trợ, phối hợp với tổ chức, doanh nghiệp thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH đúng pháp luật.
Tăng cường đầu tư, phát triển hạ tầng kỹ thuật và công nghệ đáp ứng tốt cho thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH theo quy định của pháp luật.
Khắc phục những bất cập, tồn tại… giữa những quy định về QLCTRSH của LBVMT 2020 liên quan đến các quy định pháp luật khác.
Tổ chức đào tạo, tập huấn, nâng cao nhận thức, phổ biến pháp luật về khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia quản lý CTRSH.
Tăng cường năng lực cho các doanh nghiệp tư nhân về khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số trong quản lý CTRSH.
Thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân trong quản lý CTRSH, ví dụ giữa các doanh nghiệp xử lý với các doanh nghiệp thu gom, vận chuyển; giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI. Phát triển các dự án PPP.
Thay đổi nhận thức, tư duy về phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân. Nhà nước chỉ làm những việc tư nhân không muốn làm do không có lợi nhuận, hoặc những vấn đề liên quan đến an ninh, quốc phòng. Kinh tế tư nhân được làm những việc mà pháp luật không cấm:
CTRSH là nguồn tài nguyên tương lai có thể mang lại lợi ích kinh tế (LIKT) lớn; nhà nước tạo điều kiện pháp lý rõ ràng, tôn trọng nguyên tắc thị trường minh bạch cho phép doanh nghiệp và hộ gia đình thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH có thể thu được LIKT.
Đảm bảo mức lợi nhuận hợp lý và minh bạch trong các quy định chính sách cụ thể về khuyến khích XHH theo nguyên lý “các bên cùng thắng” (win – win), theo đó mức lợi nhuận đủ hấp dẫn đầu tư tư nhân và đạt được mục tiêu quản lý một cách hiệu quả.
Dành một khoản ngân sách cho đầu tư “mồi” (hiện còn rất mờ nhạt, thậm chí vắng bóng trong quản lý CTRSH đô thị ở nhiều địa phương) đủ hấp dẫn đầu tư tư nhân cùng tham gia.
Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường
Xây dựng quy hoạch BVMT quốc gia, trong đó có định hướng đầu tư các dự án quản lý chất thải rắn liên vùng, liên tỉnh; các giải pháp thúc đẩy xã hội hóa. Hướng dẫn việc cho vay vốn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; tài trợ, đồng tài trợ và hỗ trợ khác từ Quỹ BVMT Việt Nam.
Ban hành Quy chế quản lý và sử dụng tiền đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam theo cơ chế để hỗ trợ tái chế, xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu (Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 82, 85). Công bố tiêu chí xác định dự án được hỗ trợ, hướng dẫn cơ quan, tổ chức có nhu cầu được hỗ trợ tài chính cho hoạt động xử lý chất thải theo cơ chế EPR lập hồ sơ đề nghị hỗ trợ (Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 82, 85). Thiết lập hệ thống giám sát, theo dõi, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong tiếp nhận, sử dụng đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam để hỗ trợ tái chế phải công khai, minh bạch, đúng mục đích.
Xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh (danh mục phân loại xanh) (Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 154).
Đối với các Bộ, ngành khác
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam tập trung, bố trí nguồn vốn phù hợp để cho vay ưu đãi khuyến khích chủ đầu tư thực hiện dự án thuộc danh mục phân loại xanh (Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 156).
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham mưu Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định hỗ trợ lãi suất đối với dự án thuộc danh mục phân loại xanh sau khi kết thúc hợp đồng vay vốn trung, dài hạn tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Bộ KHĐT hướng dẫn phân loại dự án thuộc danh mục phân loại xanh để tổng hợp trong danh mục đầu tư công khi xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn, kế hoạch đầu tư công hàng năm làm căn cứ để Chính phủ, chính quyền địa phương lựa chọn khi phát hành trái phiếu xanh (Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 157).
Đối với UBND cấp tỉnh
Xây dựng phương án quản lý CTRSH trong quy hoạch tỉnh, trong đó đưa ra phương án thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH trên địa bàn tỉnh; công bố công khai, minh bạch đến các DN quản lý chất thải.
Ban hành quy định chi tiết về quản lý CTRSH; quy định giá cụ thể, hình thức thu, mức phí đối với dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH dựa trên khối lượng hoặc thể tích chất thải đã được phân loại theo hướng dẫn tại Thông tư 02/2022/TT-BTNMT. Mức giá xử lý cần khuyến khích các công nghệ hiện đại, hạn chế chôn lấp, thu hồi năng lượng.
Tổ chức đấu thầu công khai, minh bạch, tạo lập sự cạnh tranh bình đẳng trong đấu thầu để lựa chọn đơn vị thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải. Xây dựng và thực hiện các mô hình hợp tác công tư trong đầu tư xử lý CTRSH.
Hướng dẫn việc cho vay vốn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; tài trợ, đồng tài trợ và hỗ trợ khác từ quỹ BVMT tỉnh. (Điều 132, Nghị định 08/2022/NĐ-CP).
Kiện toàn và phát triển quỹ BVMT cấp tỉnh với vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng, để có nguồn lực hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia quản lý CTRSH. (Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 158-159).
Tổ chức tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt; chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn.
Đối với các doanh nghiệp, HTX cung cấp dịch vụ môi trường (có thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH)
Áp dụng nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” trong thu gom CTRSH như Luật BVMT 2020 đã ban hành.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách về KHCN phù hợp với đặc điểm mô hình, quy mô doanh nghiệp, HTX (hỗ trợ về vốn đầu tư, thẩm định và giới thiệu công nghệ mới, thân thiện môi trường ).
Chính sách XHH BVMT cần khẳng định vai trò của doanh nghiệp và HTX môi trường.
Tiếp cận nguồn vốn từ các quỹ môi trường (xây dựng hướng dẫn cụ thể, thêm tiêu chí đánh giá theo mô hình HTX – hiện nay vẫn đang áp dụng theo tiêu chí doanh nghiệp).
Phối hợp nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình phân loại CTR tại nguồn: xây dựng cơ chế đồng bộ hóa toàn bộ quá trình phân loại CTR tại nguồn, từ vai trò của từng hộ gia đình đến quy định trách nhiệm của chính quyền và lực lượng, đơn vị thu gom. Trong đó đặc biệt lưu ý đến việc thu gom riêng CTR sinh hoạt sau phân loại.
Chuẩn hóa khái niệm: thế nào là CTRSH (rác) đã được phân loại để tránh mâu thuẫn giữa hộ dân và đơn vị thu gom khi tiến hành thu gom và thu các khoản phí dịch vụ tương ứng.
Khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào các hoạt động thu gom, vận chuyển CTR. Từng bước hoàn thiện, đồng bộ hạ tầng thu gom, vận chuyển CTR sinh hoạt.
Do đặc điểm của các đô thị Việt Nam là nhiều ngõ, hẻm nên các phương tiện cơ giới lớn, hiện đại không thể tiếp cận đến từng điểm thu gom, do đó vai trò của các phương tiện thu gom nhỏ lẻ của các đơn vị tư nhân là rất quan trọng.
Nghiên cứu, điều chỉnh các bất cập và ban hành đơn giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý môi trường theo nguyên tắc tự đảm bảo cân đối thu chi: Theo phản ánh của nhiều cá nhân, đơn vị thu gom rác trên địa bàn nhiều tỉnh thành: phí thu gom quá thấp và chậm thay đổi, trong khi giá nhiên liệu, vật tư và nhân công biến động lớn dẫn đến các đơn vị này hoạt động không có hiệu quả kinh tế. Do đó, cần ban hành cơ chế giá thu gom phù hợp. Ngoài ra, trên địa bàn mật độ dân cư thấp, xe thu gom phải di chuyển trên đoạn đường dài hơn để thu đủ CTRSH cũng dẫn đến gia tăng phí thu gom. Do đó, cần có giải pháp giúp đơn vị thu gom tối ưu hóa đường vận chuyển và áp dụng hệ số giá phù hợp theo mật độ thu gom.
CTRSH có khả năng tái chế được phân loại được thu mua với giá quá thấp không khuyến khích đơn vị thu gom tiếp nhận mà không được hỗ trợ kinh phí.
Tiếp tục tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng, người dân và doanh nghiệp trong công tác QLCTR nhất là đối với việc thu gom, phân loại, tái chế và xử lý chất thải rắn tại nguồn.
Chủ động khuyến nghị, đề xuất với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tạo điều kiện, cơ chế phù hợp để hỗ trợ đầu tư trang thiết bị, hạ tầng kỹ thuật đảm bảo công tác thu gom, vận chuyển CTR sinh hoạt.
Phối hợp chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan thường xuyên tổ chức tập huấn, triển khai các giải pháp kỹ thuật trong việc thu gom, xử lý chất thải rắn cho địa phương.
Cùng với chính quyền và nhân dân địa phương thống nhất lựa chọn, thực hiện các mô hình thu gom xử lý CTRSH khu vực nông thôn phù hợp, có hiệu quả, dễ triển khai.
Một số ví dụ đề xuất cụ thể
Ngày 07/7/2022, Chính phủ ban hành Nghị định 45/2022/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường, trong đó, bổ sung thêm quy định về xử phạt cá nhân, hộ gia đình không phân loại rác thải sinh hoạt. Theo đó sẽ phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi hộ gia đình, cá nhân không phân loại chất thải rắn sinh hoạt theo quy định; không sử dụng bao bì chứa chất thải sinh hoạt theo quy định.
Cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết để mọi người thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt đúng, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, đồng bộ với khả năng đáp ứng của hệ thống hạ tầng quản lý CTRSH của địa phương hiện tại và tương lai.
Lộ trình thực hiện linh hoạt tùy điều kiện văn hóa, kinh tế, xã hội địa phương tương ứng với mô hình phân loại CTRSH do chính quyền, đơn vị quản lý và các bên liên quan ở địa phương sẽ thống nhất áp dụng Hình thức thu gom có thể linh hoạt tùy địa phương quyết định, ví dụ áp dụng thu gom theo giờ hoặc thu gom trực tiếp; phân loại 2 loại CTRHC và VC hoặc phân 2 loại tái chế được và không tái chế được và văn bản hóa để tuyên truyền, phổ biến và áp dụng theo khu vực theo thẩm quyền quản lý nhà nước và phạm vi quản lý CTRSH thực tế của đơn vị cũng cấp dịch vụ QLCTSH.
Xác định vị trí có thể thực hiện phân loại CTRSH: phân loại tại nguồn như hộ gia đình hay tại cơ sở chủ nguồn thải, chính quyền địa phương và đơn vị cung ứng dịch vụ thu gom xác định vị trí phân loại tại khu vực đặt trạm trung chuyển, ở đó phải có cấu trúc xây dựng phù hợp giảm thiểu mùi hôi và vấn đề ko đảm bảo khoảng cách ly vệ sinh… phù hợp quy hoạch xây dựng và quy hoạch sử dụng đất của địa phương đã được phê duyệt… Phân loại tại vị trí đặt khu liên hợp xử lý CTR theo quy hoạch của địa phương.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng chủ động đề xuất loại hình công nghệ khả dụng để xây dựng và triển khai dự án đầu tư tại vị trí phù hợp theo quy hoạch sử dụng đất của địa phương, đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo các tiêu chí rõ ràng, minh bạch về đất đai, vốn, công nghệ phù hợp… (1 – công nghệ hoàn chỉnh và đã áp dụng thành công ở đâu chưa; 2-hiệu quả/ suất đầu tư theo công suất đã có tổng kết để có thể so sánh, đánh giá; 3- Mức độ an toàn và vận hành đơn giản nhất có thể, thân thiện với môi trường.
Kiện toàn mô hình phối hợp nhà nước và doanh nghiệp, hộ gia đình tham gia quản lý CTRSH bao gồm cả công tác giám sát, hậu kiểm quá trình và kết quả thực hiện các dịch vụ quản lý CTRSH liên quan và pháp lý hóa để áp dụng được trên thực tế.
Nguyễn Quốc Công
Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội
Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị