Lập, phê duyệt quy hoạch khoáng sản nhằm quản lý hiệu quả tài nguyên khoáng sản
(TN&MT) – Luật Khoáng sản quy định, hoạt động khoáng sản phải phù hợp với quy hoạch. Theo đó, quy định công tác cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản phải thực hiện theo quy hoạch.
Ngành khoáng sản đóng góp tích cực cho phát triển đất nước
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng về khoáng sản với trên 5.000 điểm mỏ của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau. Để quản lý tốt nguồn tài nguyên khoáng sản, đóng góp tích cực của ngành khoáng sản cho phát triển đất nước, đến nay, Bộ Chính trị đã ban hành 3 Nghị quyết về phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, gồm: Nghị quyết số 13 NQ/TW ngày 1/3/1996 về Định hướng chiến lược tài nguyên khoáng sản và phát triển công nghiệp khai khoáng đến năm 2010; Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25/4/2011 về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/2/2022 về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2045.
Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản đã dần hoàn thiện, trong đó, công tác lập quy hoạch khoáng sản phải đi trước một bước được quy định trong pháp luật về khoáng sản từ năm 2005. Việc lập, phê duyệt các quy hoạch khoáng sản tạo cơ sở pháp lý cho việc cấp giấy phép hoạt động khoáng sản trong cả nước, tạo cơ sở cho quản lý, sử dụng hiệu quả, hợp lý tài nguyên khoáng sản.
Đến nay, Thủ Tướng Chính phủ đã phê duyệt 17 quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng cho hơn 40 loại khoáng sản của cả nước. Ngoài ra, đã có 27 Quyết định bổ sung, điều chỉnh Quy hoạch khoáng sản và có 76 Văn bản của Thủ tướng Chính phủ và Văn phòng Chính phủ đồng ý điều chỉnh, bổ sung quy hoạch khoáng sản đối với các trường hợp: Điều chỉnh tiến độ, công suất, tọa độ, diện tích,… các dự án đã có trong quy hoạch; bổ sung dự án đầu tư chế biến khoáng sản vào quy hoạch; bổ sung các khu vực khoáng sản mới phát hiện,…
Thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước về khoáng sản theo quy định của Luật Khoáng sản, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành hàng trăm văn bản; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã lập, phê duyệt gần 100 quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến sử dụng khoáng sản thuộc thẩm quyền địa phương.
Theo ông Lại Hồng Thanh – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, tính đến đầu năm 2021, cả nước có khoảng 3.679 khu vực được Bộ TN&MT, UBND các tỉnh cấp cho hơn 3.300 tổ chức, cá nhân đang khai thác với gần 50 loại khoáng sản khác nhau trên phạm vi cả nước, tập trung vào các loại khoáng sản như đá, sét, cát, sỏi làm vật liệu xây dựng thông thường (VLXDTT), than, đá vôi, đá sét làm nguyên liệu xi măng, đá hoa trắng, đá ốp lát… Trong đó, có gần 3.000 khu vực khoáng sản làm VLXDTT phần lớn ở quy mô nhỏ và trên 500 khu vực khai thác khoáng sản quy mô công nghiệp. Hàng năm, cung cấp trên một trăm triệu tấn đá vôi để sản xuất xi măng, hàng trăm triệu m3 đá làm VLXDTT, trên 100 triệu m3 cát, sỏi phục vụ nhu cầu xây dựng; khoảng 40 triệu tấn than sạch, trên 3 triệu tấn quặng sắt,…
Quy hoạch khoáng sản có nhiều ý nghĩa quan trọng
Mặc dù việc triển khai thực hiện các quy hoạch khoáng sản đã đáp ứng nhu cầu nguyên liệu khoáng cho các ngành công nghiệp chế biến, đóng góp đáng kể ngân sách cho đất nước, nhưng vẫn còn một số tồn tại nhất định.
Theo ông Lại Hồng Thanh, trong thực tế, có một số loại khoáng sản đa dụng, vừa sử dụng làm vật liệu xây dựng, vừa sử dụng được để làm khoáng chất công nghiệp nhưng tồn tại trong một mỏ khoáng sản (đá hoa trắng, caolin – fensat…). Tuy nhiên, theo phân công, mỏ khoáng sản đó được 2 Bộ cùng lập quy hoạch tại 2 quy hoạch khác nhau, được phê duyệt ở 2 thời điểm khác nhau. Do đó, khi quy hoạch được duyệt có sự chồng chéo về mục tiêu, thời gian, tiến độ đưa mỏ vào thăm dò, khai thác, chế biến, gây khó khăn trong quá trình thực hiện quy hoạch.
Ngoài ra, sau khi quy hoạch được duyệt, việc công bố công khai nội dung quy hoạch cũng như hướng dẫn thực hiện quy hoạch gần như chưa thực hiện và do thiếu sự phối hợp trong quá trình lập quy hoạch nên Quy hoạch của cả nước và Quy hoạch của địa phương có nhiều chồng chéo; công suất khai thác, chế biến của một số loại khoáng sản (điển hình là đá hoa trắng, chì – kẽm…) theo quy hoạch của địa phương lớn hơn nhiều so với quy hoạch của Trung ương, dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh do không cân đối được nguồn nguyên liệu.
Dù còn một số khó khăn, nhưng việc phê duyệt các quy hoạch khoáng sản tạo cơ sở pháp lý cho việc cấp giấy phép hoạt động khoáng sản trong cả nước và quản lý, sử dụng hiệu quả, hợp lý tài nguyên khoáng sản.
Đồng thời, các quy hoạch đã xây dựng trên cơ sở tài liệu địa chất khoáng sản đã có. Các kết quả công tác địa chất đã được khai thác sử dụng vào thực tế góp phần định hướng phát triển kinh tế xã hội.
Hơn nữa, các quy hoạch đã dự báo hợp lý nhu cầu khoáng sản và các sản phẩm chế biến từ khoáng sản. Tuy nhiên, nội dung về quy hoạch chế biến còn chưa được rõ nét và chưa phù hợp với phạm vi chế biến khoáng sản của Luật Khoáng sản.
Bên cạnh đó, các quy hoạch khoáng sản có ý nghĩa vai trò quan trọng trong quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản, tạo nên sự công khai, minh bạch, thể hiện rõ vai trò của Nhà nước trong việc quản lý, khai thác tài nguyên khoáng sản và phát triển công nghiệp khai khoáng, trách nhiệm của Nhà nước đối với các doanh nghiệp.
Theo số liệu tổng hợp, đóng góp cho GDP hàng năm của công nghiệp khai khoáng đạt 8,1% (cao nhất năm 2016) giảm còn 5,5% vào năm 2020. Sản lượng khai thác khoáng sản, đặc biệt là than và khoáng sản kim loại phần lớn không tăng; sản lượng khai thác dầu khí cũng không tăng, giảm liên tục trong 5 năm trở lại đây. Trong thực tế, về giá trị tuyệt đối, sản lượng của ngành công nghiệp khai khoáng, nhất là khoáng sản làm nguyên liệu xi măng, làm vật liệu xây dựng, apatit, quặng đồng vẫn tăng hàng năm nhưng tốc độ tăng GDP nhanh hơn (sau 10 năm GDP của nước ta đã tăng khoảng 4 lần). Về thu ngân sách nhà nước từ thuế tài nguyên khoáng sản (chưa tính dầu khí) từ năm 2012 đến 2020, đạt khoảng 157 nghìn tỉ đồng.