Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU góp phần giảm nhẹ các tác động bất lợi cho nền kinh tế
Tại Hội thảo “Đánh giá hai năm thực thi Hiệp định EVFTA tại Việt Nam từ góc nhìn doanh nghiệp”, bà Nguyễn Cẩm Trang – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết, các mặt hàng như sắt thép tăng 739%; máy ảnh, máy quay phim, linh kiện tăng 260%; máy móc và thiết bị tăng 82,3%. Một số mặt hàng mới cũng có tăng trưởng cao sang thị trường EU trong giai đoạn này như nhóm gạo, sản phẩm mây tre, cói thảm tăng trên 50%; các sản phẩm gốm, sứ tăng trên 25%; nhóm rau quả, dây diện và dây cáp điện tăng trên 15%…
Dẫn chứng thêm về tác động tích cực của EVFTA, bà Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI chia sẻ kết quả khảo sát doanh nghiệp về EVFTA, tỷ lệ các doanh nghiệp Việt Nam từng được hưởng lợi từ EVFTA là rất đáng khả quan, với gần 41% cho biết đã từng hưởng ít nhất một lợi ích nào đó từ EVFTA. Lợi ích phổ biến nhất là từ các ưu đãi thuế quan đối với hàng xuất – nhập khẩu và hiệu ứng tích cực trong gia tăng đơn hàng, doanh thu, lợi nhuận.
Hội thảo “Đánh giá hai năm thực thi Hiệp định EVFTA tại Việt Nam từ góc nhìn doanh nghiệp” |
Theo bà Nguyễn Thu Trang, điều này có thể là kết quả của sự cải thiện trong mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về Hiệp định EVFTA, bởi theo khảo sát, có tới gần 94% doanh nghiệp từng nghe nói hoặc biết ở các mức độ khác nhau về Hiệp định này, cao nhất trong số các FTA đang thực hiện. Cụ thể, cứ 10 doanh nghiệp thì có 3 doanh nghiệp biết khá rõ và 1 doanh nghiệp biết rất rõ về các cam kết EVFTA có liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.
Đáng nói, 76% doanh nghiệp cho rằng, các EVFTA và các FTA sẽ có tác động tới triển vọng kinh doanh trong 3 năm tới, và phần lớn lạc quan đây sẽ là các tác động tích cực. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng chỉ ra các lực cản có thể khiến họ khó hưởng lợi từ EVFTA và các FTA, đáng kể nhất là các biến động và bất định của thị trường (47% doanh nghiệp đề cập), năng lực cạnh tranh hạn chế (46%), thiếu thông tin về cam kết và cách thức tận dụng (40%).
Theo ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI, 2 năm đầu thực thi Hiệp định EVFTA vừa qua cũng là khoảng thời gian mà kinh tế thế giới và Việt Nam phải đối mặt với những biến động chưa từng có, từ dịch bệnhCovid-19, đứt gãy các chuỗi cung ứng, đến xung đột Nga – Ukraina, khủng hoảng năng lực, lương thực,… Tuy nhiên, các số liệu thống kê vĩ mô cho thấy, EVFTA đã góp một phần quan trọng làm giảm nhẹ các tác động bất lợi, và giúp quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU phát triển khả quan.
Cụ thể, về thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU hai năm đầu thực thi (8/2020-7/2022) đạt 83,4 tỷ USD, tức trung bình 41,7 tỷ USD/năm, cao hơn tới 24% so với kim ngạch xuất khẩu trung bình năm giai đoạn 2016-2019 trước đó. Tỷ lệ hàng xuất khẩu tận dụng ưu đãi thuế quan EVFTA năm 2020 đạt 14,8%, tăng lên 20,2% năm 2021 và 24,5% trong 6 tháng đầu năm 2022.
Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), FDI của EU vào Việt Nam năm 2020 đạt gần 1.376 triệu USD vốn đăng ký, giảm 8,6% so với 2019, đứng thứ 8 và chiếm 4,8% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Năm 2021, tình hình có cải thiện hơn, với tổng vốn hơn 1.405 triệu USD, tăng 2,2%, giúp EU vươn lên đứng thứ 5 nhưng tỷ trọng trong tổng FDI giảm nhẹ, chiếm 4,5%.
Đặc biệt, tổng vốn đầu tư bình quân năm giai đoạn 2017-2021 (giai đoạn sau khi EVFTA hoàn tất đàm phán) tăng 86% so với thời gian 2015-2016 liền trước đó. Tuy nhiên, đầu tư vào Việt Nam mới chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng đầu tư ra nước ngoài của EU (0,35% năm 2021).
Tuy nhiên, báo cáo của VCCI cũng cho thấy, doanh nghiệp cũng chỉ ra các lực cản có thể khiến họ khó hưởng lợi từ EVFTA và các FTA. Đáng kể nhất là các biến động và bất định của thị trường (47% doanh nghiệp đề cập), năng lực cạnh tranh hạn chế (46%), thiếu thông tin về cam kết và thách thức tận dụng (40%).
Để tiếp tục xây dựng kế hoạch phát triển thị trường của doanh nghiệp cho từng sản phẩm vào thị trường EU, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Nguyễn Cẩm Trang cho rằng, sự chủ động trong nhận thức và hành động của doanh nghiệp là điều kiện cần và các nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh là điều kiện đủ, để doanh nghiệp có thể hiện thực hóa các lợi ích từ EVFTA hay các FTA nói chung.
Định vị thương hiệu và xúc tiến thương mại là điều các doanh nghiệp cần quan tâm trong thời điểm hiện nay. Các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt thông tin về cơ hội cắt giảm thuế quan đối với mỗi sản phẩm đặc trưng của mình. Cần chủ động nắm bắt thông tin về thị trường EU với các xu hướng, thị hiếu cũng như cơ chế nhập khẩu hàng hóa, trong đó quan tâm đến các yêu cầu chất lượng tránh để hàng hóa bị trả về vì không đáp ứng tiêu chuẩn.
Bảo Thoa
Nguồn: Báo lao động thủ đô