Góp ý vào dự thảo Nghị định Luật Bảo vệ Môi trường 2020 của Hiệp hôi VUREIA

Góp ý vào dự thảo Nghị định Luật Bảo vệ Môi trường 2020 của Hiệp hôi VUREIA

MTĐT –  Thứ năm, 18/11/2021 14:14 (GMT+7)

Ngày 08/11/2021, Hiệp hội Môi trường Đô thị và Khu Công nghiệp Việt Nam (VUREIA) vừa có văn bản gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường; một số cơ quan có thẩm quyền về việc đóng góp ý kiến vào Dự thảo Nghị định của Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020.

tm-img-alt

Ban biên tập Môi trường và Đô thị Việt Nam xin trân trọng gửi tới bạn đọc toàn văn bản đóng góp ý kiến của Hiệp hội. Cụ thể:

Sau khi được Quốc hội Khoá XIV (Kỳ họp thứ 10) thông qua, Luật Bảo vệ Môi trường 2020 (BVMT) chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2022, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường 2020. Đồng thời theo nhiệm vụ được giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ quản lý lĩnh vực cũng đang triển khai soạn thảo các hướng dẫn thi hành Luật.

Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Bảo vệ Môi trường 2020 đề cập nhiều vấn đề, trong đó có liên quan trực tiếp các hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt của các đơn vị trong ngành môi trường đô thị. Hiệp hội Môi trường Đô thị và Khu Công nghiệp Việt Nam (Hiệp hội) đã lấy ý kiến đóng góp của các đơn vị hội viên (hơn 200 đơn vị hội viên tập thể, đại diện cho hơn 80 nghìn hội viên cán bộ, công nhân môi trường trên toàn quốc).

Trên cơ sở các ý kiến đóng góp, Hiệp hội đã xem xét, đánh giá chung và tổng hợp đề xuất, kiến nghị, bổ sung những vấn đề cụ thể như sau:

Phần I: 

Các ý kiến đóng góp chung vào Dự thảo Nghị định

Dự thảo Nghị định viết dài dòng, lẫn cả nội dung chiến lược của Luật Bảo vệ Môi trường 2020, gây khó khăn cho đối tượng áp dụng. Nên có thông tư riêng về phí và lệ phí. Trong Nghị định cần loại bỏ những điều, khoản hàm chứa nội dung xin cho. Xã hội hoá công tác thẩm định, xây dựng tiêu chuẩn môi trường… Bộ Tài nguyên và Môi trường không nhất thiết phải “ôm” hết công việc nói trên. Nghị định còn thiếu mục: Quản lý Chất thải xây dựng. Trên thực tế hiện nay, khối lượng chất thải xây dựng phát sinh từ các công trình, dự án trên địa bàn các đô thị, tỉnh thành là rất lớn và đang tăng nhanh trong thời gian gần đây. Chất thải xây dựng cũng cần được hướng dẫn quản lý chi tiết cho các khâu từ nguồn phát sinh, thu gom, vận chuyển và xử lý.

Nghị định cần bổ sung hướng dẫn điều khoản về  công tác phân loại rác tại nguồn, và việc thu phí thu gom rác theo khối lượng. Người dân và các doanh nghiệp dịch vụ môi trường cần được nắm rõ quy định trách nhiệm và  lộ trình thực hiện. Trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, sở tài nguyên và môi trường, UBND các địa phương như thế nào? Các nội dung hướng dẫn trong Dự thảo Nghị định dưới luật cần diễn giải chi tiết, bám sát hơn với tinh thần của Luật Bảo vệ môi trường đã ban hành. 

Cách bố trí nội dung của từng mục, cách đặt vấn đề không thống nhất và thiếu logic, lúc thì theo nguồn phát sinh, lúc thì theo tính chất, cụ thể:

+ Mục 1: “Quản lý Chất thải rắn sinh hoạt” theo nguồn phát sinh,…;

+ Mục 2: “Quản lý Chất thải rắn công nghiệp thông thường” lại theo tính chất…;

+ Mục 3: “Quản lý chất thải nguy hại” bắt đầu từ tính chất,…;

Không nên để văn phòng EPR thành tổ chức độc lập cũng như không thành lập quỹ mới vì làm như vậy sẽ “phình” biên chế, gây tốn kém kinh phí của Nhà nước, nên giao công việc nói trên cho các cơ quan nhà nước ở địa phương 

Phần II:  

Các ý kiến đóng góp cụ thể vào các điều, khoản Dự thảo Nghị định

1/ Điều 3: 

Đối với các giải thích từ ngữ “tái sử dụng chất thải”, “sơ chế chất thải”, “sơ chế phế liệu”, “tái chế chất thải”, “xử lý chất thải” được trình bày trong Điều 3.

Ý kiến của Hiệp hội: cần xem xét yếu tố các doanh nghiệp, người dân sử dụng các “chất thải” từ quá trình sản xuất này để làm “nguyên liệu” cho quá trình sản xuất khác thì được phân loại vào nhóm nào để xác định thủ tục môi trường cho phù hợp ?

Khoản 2 Điều 3: Giải thích từ ngữ “cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong làng nghề là….”. 

Ý kiến của Hiệp hội: Đề nghị làm rõ tiêu chí xác định “cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong làng nghề” và “cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ngoài làng nghề” khác nhau như thế nào? Nên giải thích từ ngữ đối với “cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng”. 

Khoản 3 Điều 3: Giải thích từ ngữ “Cơ sở gây ô nhiễm môi trường kéo dài trong khu dân cư, làng nghề là cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu dân cư, làng nghề có hành vi vi phạm quy định về xả nước thải, thải bụi, khí thải, gây ô nhiễm tiếng ồn, độ rung vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải hoặc chôn, lấp, đổ, thải chất thải rắn, chất thải nguy hại trái quy định về bảo vệ môi trường lặp lại nhiều lần, đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà không khắc phục được”. 

Ý kiến của Hiệp hội: Làm rõ “lặp lại nhiều lần” là bao nhiêu lần trở lên và trong khoảng thời gian bao lâu?

Khoản 14 Điều 3: Giải thích từ ngữ “Chất thải rắn thông thường là chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp thông thường hoặc chất thải công nghiệp phải kiểm soát nhưng có yếu tố nguy hại dưới ngưỡng chất thải nguy hại”. 

Ý kiến của Hiệp hội: Đề nghị làm rõ chất thải xây dựng có thuộc chất thải rắn thông thường không?

2/  Điều 21: Quy định về phân vùng  môi trường xác định những vùng bảo vệ nghiêm ngặt và vùng hạn chế phát thải. 

Ý kiến của Hiệp hội: Cần lồng ghép với các qui định của Luật Quy hoạch 2018, Luật Quy hoạch đô thị 2009 tránh những qui định chồng chéo gây khó khăn trong công tác quy hoạch tại các địa phương như hiện nay .

3/ Điều 24: Quy định về tiêu chí môi trường và phân loại các dự án đầu tư  

Ý kiến của Hiệp hội: Cần phải rà soát và lồng ghép với Luật bổ sung sửa đổi một số điều của  Luật Xây dựng năm 2020, tránh gây những thủ tục phiền hà cho các dự án đầu tư đều đã được yêu cầu đánh giá tác động môi trường và đã được thẩm định.

4/ Điều 26: 
Tham vấn trong đánh giá tác động môi trường

Điểm a Khoản 3: “Trước khi trình cấp có thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, chủ dự án phải đăng tải thông tin về dự án đầu tư và báo cáo đánh giá tác động môi trường trên trang thông tin điện tử của cơ quan thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường trong thời gian ít nhất 15 ngày, trừ thông tin thuộc bí mật Nhà nước, bí mật của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật”. 

Ý kiến của Hiệp hội: Do chủ dự án không có quyền đăng tải thông tin lên cơ quan có thẩm quyền mà phải cơ quan thẩm định đăng tải thông tin.

5/ Điều 35:

+ Tại Khoản 3, Điểm a quy định:

Xe tải thùng lắp cố định có lắp đặt thùng hoặc hộp thu chất lỏng dự phòng bên dưới đáy thùng. 

Ý kiến của Hiệp hội: Bỏ nội dung này vì chất thải nguy hại được chứa trong bao bì và sau đó đặt trong thiết bị lưu giữ trước khi vận chuyển bằng xe tải thùng chuyên dụng. Nếu thực hiện nội dung này sẽ phát sinh chi phí không cần thiết cũng như làm tăng tải trọng xe và làm giảm tỉ trọng được phép chuyên chở.

+ Tại Khoản 3, Điểm i quy định:

… Trừ trường hợp xe gắn máy thì kích thước lựa chọn phù hợp với thực tế. 

Ý kiến của Hiệp hội: Xem lại nội dung này vì rủi ro rất lớn, không an toàn khi vận chuyển chất thải nguy hại bằng xe gắn máy.

6/ Điều 38:

+ Tại Khoản 1:

Nguyên tắc xây dựng và triển khai mô hình xử lý chất thải rắn sinh hoạt

Ý kiến của Hiệp hội: Thêm chữ  “xử lý” vào tiêu đề

+ Tại Khoản 1, Điểm đ quy định:

… hoặc công nghệ có lưu lượng nước thải, khí thải phát sinh ít hơn 50% so với công nghệ đang sử dụng tại Việt Nam.

Ý kiến của Hiệp hội: Cân nhắc công nghệ có lưu lượng khí thải phát sinh ít hơn tỷ lệ 50% có phù hợp với điều kiện thực tế hay không.

+ Khoản 2 quy định:

Cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh nghiên cứu, áp dụng thử nghiệm và tổng kết, đánh giá, nhân rộng mô hình xử lý chất thải rắn sinh hoạt liên vùng, liên tỉnh.

Ý kiến của Hiệp hội: Không chỉ áp dụng thử nghiệm mô hình xử lý chất thải rắn sinh hoạt liên vùng, liên tỉnh cho chất thải rắn sinh hoạt mà còn thực hiện cho tất cả các loại chất thải rắn khác, đặc biệt là chất thải nguy hại nhằm huy động được tài chính và công nghệ.

+ Khoản 3 quy định:

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ điều kiện kinh tế – xã hội, thực trạng công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại địa phương chủ động lựa chọn mô hình xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn cho phù hợp.

Ý kiến của Hiệp hội: Đề xuất bổ sung: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, điều kiện kinh tế – xã hội, …” để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và hiệu quả.

7/ Điều 39:

+ Khoản 1, Điểm a quy định:

Thông qua giá bán bao bì đựng chất thải rắn sinh hoạt. Giá bán bao bì bao gồm giá thành sản xuất bao bì và một phần giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt.

Ý kiến của Hiệp hội: Đề xuất xem lại nội dung này vì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết về quản lý chất thải rắn sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn; quy định giá cụ thể đối với dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt; quy định cụ thể hình thức và mức kinh phí hộ gia đình, cá nhân phải chi trả cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt dựa trên khối lượng hoặc thể tích chất thải đã được phân loại tại Điều 79, Khoản 6 Luật số 72/2020/QH14 Luật Bảo vệ môi trường.

8/ Điều 40

Phương pháp định giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt mà chính quyền địa phương chi trả cho cơ sở thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt

Ý kiến của Hiệp hội: Tiêu đề có đề cập, nhưng nội dung chưa hướng dẫn chi tiết cho phần tính toán chi phí thu gom và vận chuyển.

Đối với các công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt có sản xuất ra sản phẩm như đốt rác phát điện, sản xuất phân compost (có doanh thu từ hoạt động xử lý chất thải rắn sinh hoạt) thì có phải trừ đi phần doanh thu này không hay để khuyến khích các cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt đầu tư công nghệ xử lý có tạo ra sản phẩm hữu ích.

Để khuyến khích vì trong tương lai hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải sẽ vận hành theo cơ chế thị trường, chủ nguồn thải chi trả toàn bộ chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, ngân sách không chi trả.

9/ Điều 51:

+ Tại Khoản 2, Điểm c:

Phương tiện vận chuyển chất thải rắn y tế (CTRYT) nguy hại phải có khoang kín, bảo ôn < 8oC

Ý kiến của Hiệp hội: Hiện tại CTRYT nguy hại được thu gom, vận chuyển và xử lý trong ngày. Chất thải được chứa đựng trong các bao bì, thùng chứa sao đó được thu gom, vận chuyển bằng phương tiện thiết bị chuyên dụng bảo ôn (<8oC) bảo đảm theo quy trình nghiêm ngặt và đúng quy định. Do vậy không cần phải có thêm nội dung này.

10/ Điều 53:

1/ Theo Khoản 4 Điều 53 của Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã giao Chính phủ quy định chi tiết về khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu dân cư của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và kho tàng. Tuy nhiên, Điều 62 Dự thảo Nghị định chỉ quy định chung là khoảng cách an toàn phải tuân thủ theo các quy định chuyên ngành hoặc quy hoạch xây dựng. 

Ý kiến của Hiệp hội: Việc quy định như vậy là chưa rõ theo yêu cầu của Luật Bảo vệ môi trường 2020, nên đề nghị cần chi tiết hóa hơn về nội dung của quy định này. 

2/ Tại Khoản 1 Điều 53 quy định “Khoảng cách an toàn về môi trường là khoảng cách tối thiểu từ nguồn phát thải trong điều kiện hoạt động bình thường của cơ sở sản xuất và kho tàng thuộc danh mục theo quy định tại Phụ lục 6 ban hành kèm theo Nghị định này đến ranh giới công trình nhà ở hợp pháp gần nhất của khu dân cư nông thôn tập trung, nội thành, nội thị của các đô thị theo quy định của pháp luật về phân loại đô thị để đạt các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường”

Ý kiến của Hiệp hội: Trường hợp dự án có diện tích rộng, có nhiều nguồn thải thì dựa vào nguồn thải nào để xác định khoảng cách an toàn? Trường hợp, nếu xác định được khoảng cách an toàn thì diện tích đất thuộc khu vực an toàn đó cần phải quy định chủ dự án được sử dụng vào mục đích gì để tránh lãng phí?
Nếu áp dụng quy định này thì việc xây dựng các trạm trung chuyển rác trong thành phố sẽ bị “phá sản” bởi các trạm trung chuyển thường gần sát nhà dân. Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, thay vì quy định về khoảng cách thì quy định về các thông số kỹ thuật về mùi nước thải, tiếng ồn… Với công nghệ cao, hiện đại nếu đáp ứng được các thông số kỹ thuật, các trạm trung chuyển có thể được xây dựng trong thành phố.

11/ Điều 56: 

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 thì “Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp các bộ, ngành và các hiệp hội ngành nghề trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, điều chỉnh, bổ sung Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất”. Tuy nhiên tại Khoản 1 Điều 56 thì “Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường đánh giá về nhu cầu sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất trong nước và nhu cầu nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài, làm cơ sở để trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài theo từng thời kỳ phát triển của đất nước”. 

Ý kiến của Hiệp hội: Đề nghị thống nhất lại đơn vị sẽ chủ trì, phối hợp các đơn vị khác để lập, điều chỉnh, bổ sung Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất.

12/ Điều 57: 

Đối với Khoản 1 Điều 57

Ý kiến của Hiệp hội: Đề nghị đối với các cơ sở sản xuất sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép môi trường thì Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét và giao cho Cục Bảo vệ môi trường các miền thuộc Tổng cục Môi trường “tổ chức kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường”.

13/ Điều 59:

+ Điểm e Khoản 7 Điều 59

Ý kiến của Hiệp hội: Đề nghị bổ sung quy định đối với trường hợp khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp đã hoạt động, chưa có hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường theo quy định; tuy nhiên do một số lý do (như hiện tại đã lấp đầy không còn quỹ đất đầu tư hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường; không kêu gọi được nhà đầu tư hạ tầng; Nhà nước không bố trí được vốn hỗ trợ đầu tư hạ tầng…) cho nên không thể hoàn thành đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường trước ngày 31/12/ 2023 theo quy định thì trường hợp này thực hiện như thế nào? Di dời, đóng cửa hay cho tồn tại.

+ Đối với Khoản 8 Điều 59 về trách nhiệm của chủ đầu tư các khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp. 

Ý kiến của Hiệp hội: Đề nghị bổ sung yêu cầu phải lắp đặt đồng hồ đo lưu lượng nước thải để giám sát, theo dõi lưu lượng nước thải đấu nối vào hệ thống xử lý nước thải tập trung của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong các khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp.

+ Khoản 9 Điều 59: “Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường quy định tại Phụ lục 6 ban hành kèm theo Nghị định này nằm ngoài khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp phải có công trình, thiết bị phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường đối với nước thải theo quy định tại khoản 6 Điều này”

Ý kiến của Hiệp hội: Nội dung nói trên không thuộc quy định tại Điều 59 – Yêu cầu về hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường của khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp. Đề nghị điều chuyển vào mục quy định về phòng ngừa ứng cứu sự cố cho phù hợp.

14/ Điều 61: 

Chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt

Ý kiến của Hiệp hội: Bổ sung Điểm a, Khoản 1: Chi phí vận hành, duy trì hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt phù hợp từng công nghệ xử lý, trong đó: 

+ Phương pháp chôn lấp: Theo Quyết định 592/BXD ngày 30/5/2014 cần bổ sung thêm chi phí bạt che phủ ngăn nước mưa và chi phí xử lý nước rửa xe.

+ Phương pháp tái chế/ Phương pháp đốt : Bộ Xây dựng chưa ban hành định mức chi phí xử lý, đề nghị bổ sung định mức xử lý theo từng công nghệ.

15/ Điều 66: 

Về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu trong tái chế, xử lý chất thải; phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường

Khoản 1 Điều 66 của Dự thảo Nghị định quy định “Cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp có phát sinh chất thải rắn sinh hoạt với tổng khối lượng dưới 300 kg/ngày được lựa chọn hình thức quản lý chất thải rắn sinh hoạt như hộ gia đình, cá nhân quy định tại Điều 75 Luật Bảo vệ môi trường hoặc quản lý theo quy định tại khoản 2 Điều này”. 

Ý kiến của Hiệp hội: Trên thực tế tại các địa phương chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt phát sinh được bù đắp thông qua ngân sách địa phương, nên việc quy định khối lượng dưới 300 kg/ngày là rất lớn (tương đương khoảng số lượng công nhân viên khoảng 300 người, nếu tính mỗi người phát sinh khoảng 01kg/ngày, theo đó quy mô hoạt động không phải là quy mô của hộ gia đình).

Do đó, đề nghị điều chỉnh lại khối lượng chất thải rắn sinh hoạt đối với Cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp.

Cần xem xét, chỉnh sửa lại nội dung tại Khoản 1 Điều 66 vì khi chọn hình thức quản lý chất thải rắn sinh hoạt như hộ gia đình, cá nhân sẽ ảnh hưởng đến cơ chế giá xử lý chất thải sinh hoạt. Đề nghị tính riêng mức phí đối với doanh nghiệp dù đó là chất thải rắn sinh hoạt (giống như điện cho sản xuất và điện cho sinh hoạt).

Điều 66. Quản lý chất thải rắn sinh hoạt từ cơ quan, tổ chức, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp

Ý kiến của Hiệp hội: Tại Khoản 1 Điều 66 nên quy ước định mức theo thể tích hoặc khối lượng và có một hệ số tỷ trọng quy đổi vì thực tế công tác thu gom từng hộ gia đình không thể đem cân theo xe thu gom và ghi nhận khối lượng tốn rất nhiều thời gian và công sức.

Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã quy định việc thu phí rác thải dựa trên khối lượng hoặc thể tích thay cho việc tính bình quân theo hộ gia đình hoặc đầu người. Cơ chế thu phí này sẽ góp phần thúc đẩy người dân phải có trách nhiệm tự phân loại, giảm thiểu rác thải phát sinh tại nguồn do nếu không thực hiện việc này thì chi phí xử lý rác thải phải nộp sẽ cao. Tuy nhiên, nên quy định hệ số quy đổi sao cho phù hợp để các bên dễ dàng thực hiện

– Khoản 3 Điều 66 và Khoản 1, Khoản 3 Điều 69, xác định nguồn thu, chi phí cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chưa rõ ràng, tách bạch giữa cơ sở SXKD, tổ chức hay hộ gia đình,… giá dịch vụ và hợp đồng dịch vụ, nguồn chi cho hoạt động này là ngân sách địa phương bù đắp? Cần xác định có bao nhiêu cá nhân, hộ gia đình thực tế của địa phương rồi sau đó mới xác định khoản thu phí hợp lý, tránh tình trạng khoán trắng cho doanh nghiệp không đảm bảo nguồn thu bù đắp chi phí.

– Khoản 1 và 2 Điều 66 về định giá khối lượng rác thải sinh hoạt nên phân loại theo Đô thị và Nông thôn vì lượng rác của 2 khu vực sẽ khác nhau về khối lượng, quãng đường thu gom, loại rác, điều kiện hạ tầng… do đó chi phí bỏ ra cho công tác thu gom sẽ khác nhau… đề nghị xác định giá của 2 khu vực này sẽ khác nhau phù hợp với điều kiện, chi phí bỏ ra.

16/ Điều 67

Lựa chọn chủ đầu tư, chủ xử lý chất thải rắn sinh hoạt

Ý kiến của Hiệp hội: Tại điều này cụm từ “chủ xử lý chất thải rắn sinh hoạt” cần có giải thích rõ tại phần Giải thích thuật ngữ

17/ Điều 68:

Lộ trình hạn chế xử lý chất thải rắn sinh hoạt bằng công nghệ chôn lấp trực tiếp

Ý kiến của Hiệp hội: Khoản 1 chỉ quy định khái niệm Công nghệ chôn lấp trực tiếp. Nhưng Khoản 3 quy định “3. Các tỉnh, thành phố không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này…” là chưa phù hợp. 

Do đó, đề nghị điều chỉnh khoản 3 thành: “3. Các tỉnh, thành phố không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này…”.

+ Tại Khoản 2: Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi đầu tư mới hoặc đưa vào vận hành các nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt cần đầu tư công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường; đến năm 2025 đảm bảo tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp xuống dưới 30%.

18/ Điều 69: Chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt chính quyền địa phương trả cho nhà đầu tư và cung cấp dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt, và Điều 70: Giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt

Ý kiến của Hiệp hội: Về nguyên tắc chi phí thu gom tại Điều 69 cũng như giá dịch vụ Điều 70 được điều chỉnh theo Luật Giá và các luật liên quan khác không nên đưa vào nghị định này.  

19/ Điều 71:

Trách nhiệm của cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt 

Ý kiến của Hiệp hội: Khoản 2 Điều 66 Dự thảo Nghị định quy định về cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp; trong khi Khoản 5 Điều 66 Dự thảo Nghị định quy định trách nhiệm của cơ sở thực hiện dịch vụ thu gom, vận chuyển.

Do đó, đề nghị điều chỉnh Khoản 1: “1. Thực hiện các trách nhiệm quy định tại Khoản 2 và Khoản 4 Điều 77 Luật Bảo vệ môi trường và Khoản 2 Điều 66 Nghị định này” thành “1. Thực hiện các trách nhiệm quy định tại Khoản 2 và Khoản 4 Điều 77 Luật Bảo vệ môi trường và Khoản 5 Điều 66 Nghị định này”.

– Việc quy định trách nhiệm của cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt tại Điều 71 còn nhiều bất cập, chưa cụ thể rõ ràng. Ngoài việc đơn vị thu gom, vận chuyển thực hiện trách nhiệm theo quy định tại các tại Khoản 2 và Khoản 4 Điều 77 Luật Bảo vệ môi trường và Khoản 2 Điều 66 của Dự thảo Nghị định. phải bảo đảm đủ yêu cầu về nhân lực, phương tiện và thiết bị chuyên dụng phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường theo quy định,… Thực tế phát sinh rất nhiều bất cập trong việc lựa chọn và giám sát quá trình thực hiện, đơn cử như việc sử dụng các loại xe tải hàng hóa thông thường để vận chuyển rác thải sinh hoạt (các loại xe này đều đáp ứng yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường khi đăng kiểm và cấp giấy), tuy nhiên nó không phù hợp cho việc vận chuyển rác thải, do phát sinh nước rò rỉ, mùi hôi… ảnh hưởng môi trường.

Việc đơn vị thu gom phải chịu trách nhiệm về tình trạng rơi vãi chất thải rắn sinh hoạt, gây phát tán bụi, mùi hoặc nước rò rỉ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường trong quá trình thu gom, vận chuyển. Có một số nội dung rất khó bảo đảm được, bản thân của rác thải được thu gom từ các hộ gia đình bao gồm thực phẩm dư thừa, thức ăn dư,… rất mau phân huỷ và phát sinh nhiều mùi hôi, việc tập hợp thu gom các loại rác này càng phát sinh thêm mùi hôi, mặc dù đơn vị thu gom đã thực hiện công đoạn phun xịt chế phẩm khử mùi nhưng không thể khống chế toàn bộ mùi hôi mà chỉ thực hiện việc hạn chế đến mức thấp nhất có thể. Do đó, đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm cụ thể của Chủ nguồn thải và mức độ hạn chế mùi hôi phát tán để căn cứ áp dụng. 

20/ Điều 73:

Ý kiến của Hiệp hội: Bổ sung thêm Khoản 1, Điều 73: Quy hoạch các địa điểm đất công cộng để bố trí mặt bằng điểm tập kết, trạm trung chuyển đáp ứng yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường theo quy định trước khi chuyển rác sang các phương tiện vận chuyển chuyên dụng.

21/ Điều 78: 

Ký quỹ bảo vệ môi trường cho hoạt động chôn lấp chất thải

Ý kiến của Hiệp hội: Cần quy định rõ thủ tục, trình tự thực hiện ký quỹ bảo vệ môi trường.

22/ Điều 86:

Ký quỹ bảo vệ môi trường cho hoạt động chôn lấp chất thải.

Mục a, của phần 2. Khoản tiền ký quỹ bảo vệ môi trường cho hoạt động chôn lấp chất thải có viết: 

a) Tổng số tiền ký quỹ (chưa bao gồm yếu tố trượt giá) bằng tổng kinh phí của các hạng mục công trình cải tạo, đóng cửa đối với bãi chôn lấp chất thải, chi phí xử lý ô nhiễm, quan trắc môi trường và vận hành các công trình xử lý chất thải;

Ý kiến của Hiệp hội: Việc xác định tổng số tiền ký quỹ theo nội dung nói trên là chưa phù hợp do: khi lập dự án đầu tư xây dựng ô chôn lấp chỉ lập chi phí xây lắp và thiết bị cùng các chi phí khác, thời điểm đó chưa thể lập các hạng mục công trình  cải tạo và chưa thể xác định được chi phí xử lý ô nhiễm do những việc đó chỉ được xác định khi vận hành xảy ra sự cố thì mới lập bổ sung.

Đồng thời chi phí vận hành các công trình xử lý chất thải chính là doanh thu của các đơn vị xử lý, nếu nộp chi phí này để ký quỹ thì các đơn vị xử lý không có vốn để hoạt động.

Tại phần 3. Quy trình ký quỹ: có Mục a) Thời gian ký quỹ:

Ý kiến của Hiệp hội: Chưa rõ thời gian ký quỹ là chỉ trong quá trình xây dựng ô chôn lấp hay là cả vòng đời của dự án từ khi xây dựng đến khi đóng cửa ô chôn lấp. Cần bỏ phần ký quỹ bảo vệ môi trường khi đầu tư xây dựng mới ô chôn lấp chất thải do:

Việc xây mới và vận hành các bãi chôn lấp chất thải của chủ đầu tư và đơn vị quản lý vận hành đều phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật, đồng thời trong quá trình thực hiện đã có sự giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước: cơ quan quản lý nhà nước về quy hoạch, xây dựng; cơ quan quản lý nhà nước về Môi trường.  

23/ Điều 91: “Nếu doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm tái chế bắt buộc hoặc trách nhiệm đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế thì sẽ bị xử lý vi phạm hành chính, ngoài ra doanh nghiệp còn bị truy thu số tiền chi ra để tái chế phần tỷ lệ không đạt được, phạt thêm 30% số tiền bị truy thu và tăng 10% số tiền bị truy thu nếu tiếp tục không nộp trong lỳ tiếp theo”. Việc nộp các khoản tiền trên phải được thực hiện trong vòng 15 ngày. Tuy nhiên, đối với việc phạt 30% nếu chậm nộp và tính thêm 10% nếu chậm nộp trong kỳ tiếp theo, Dự thảo Nghị định lại không có cơ chế để doanh nghiệp phản hồi, nếu Văn phòng EPR tính sai số tiền truy thu/tiền phạt/chậm nộp đó.

Ý kiến của Hiệp hội: Bãi bỏ việc thành lập Văn phòng EPR và Hội đồng EPR do không đề cập hay quy định trong Luật Bảo vệ môi trường 2020, không có cơ sở pháp lý; làm tăng biên chế bất hợp lý; quy chế hoạt động có nhiều điểm trái với các luật hiện hành.

24/ Điều 97: Nhà sản xuất, nhập khẩu phải đưa các thông tin về sản phẩm, bao bì do mình sản xuất, nhập khẩu lên nhãn sản phẩm hoặc sách hướng dẫn kèm theo sản phẩm, bao gồm: thông tin về thành phần nguyên liệu, vật liệu; hướng dẫn phân loại, thu gom, tái sử dụng, xử lý sản phẩm, bao bì. Ngoài ra, nhà sản xuất, nhập khẩu phải sử dụng biểu tượng tái chế quốc gia do Bộ Tài nguyên và Môi trường đăng ký, công bố trên bao bì của sản phẩm. 

Ý kiến của Hiệp hội: Quy định này không chỉ gây khó khăn và tốn kém cho doanh nghiệp khi phải thay đổi toàn bộ nhãn sản phẩm mà còn trái thông lệ quốc tế và không phù hợp với Nghị định số 43/2017/NĐ-CP về nhãn hàng hoá, trong đó quy định các thông tin chỉ là tự nguyện.

25/ Điều 118: 

Đối tượng xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường.

Ý kiếncủa Hiệp hội: Đề xuất bổ sung thành phần môi trường gồm có môi trường không khí.

26/ Phần phụ lục

Ý kiến của Hiệp hội: Nghị định sẽ có hiệu lực thi hành vào ngày 1/1/2022. Hiện nay, người dân và doanh nghiệp vẫn đang phải gồng mình cùng Chính phủ chống dịch. Nếu nghị định áp dụng vào ngày 1/1/2022 thì doanh nghiệp phải chịu thêm chi phí (thực tế hiện nay các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc sản xuất – kinh doanh, cũng như đã phát sinh rất nhiều khoản phí liên quan chống dịch). Hệ quả của việc phải tăng thêm chi phí tái chế theo nghị định này là doanh nghiệp sẽ buộc phải tăng giá hàng hoá. Cuộc sống của người dân chắc chắn sẽ càng bị ảnh hưởng nặng nề do giá cả hàng hoá đắt hơn và chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới mục tiêu kép của Chính phủ. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị giãn lộ trình thực hiện thêm ba năm cho đến tháng 1/2025.

+ Thêm vào đó, tỷ lệ thu hồi đối với bao bì quy định trong Phụ lục 55 của Dự thảo từ 80% đến 90% là quá cao, chưa phù hợp với thực tế hiện nay ở Việt Nam. Để đạt được tỷ lệ thu hồi này, doanh nghiệp cần đầu tư công nghệ mới và thời gian triển khai, dự kiến phải mất từ 3 đến 5 năm. Vì vậy chúng tôi kiến nghị cần có lộ trình và tỷ lệ thu hồi phù hợp, khởi đầu là 40% sau đó cứ 3 năm tăng một lần, mỗi lần không quá 5%. Trước mắt ưu tiên thu gom, tái chế những sản phẩm, bao bì khó thu gom, gây tác hại lớn cho môi trường. Những bao bì có giá trị thương mại và tỷ lệ thu hồi cao như bao bì giấy, bao bì nhôm không gây độc hại cho môi trường nên được cân nhắc bỏ ra khỏi danh mục tái chế bắt buộc.

Phụ lục 55 (Mục 37) còn bắt buộc tái chế bao bì của thực phẩm và đồ uống thành các sản phẩm cụ thể như: giấy vệ sinh, giấy bìa, hợp giấy… Đây là quá trình chế biến thành các sản phẩm khác. Quá trình này thường đòi hỏi nguyên vật liệu tái chế phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất khác nhau rồi mới ra được sản phẩm có tính thương mại như trên. Vì vậy chúng tôi kiến nghị Ban soạn thảo xem xét lại quy cách tái chế ghi trong Phụ lục 55 của Dự thảo Nghị định, theo hướng bao bì được tái chế dùng làm nguyên liệu cho sản xuất thay vì phải tái chế sản xuất ngay thành những sản phẩm cụ thể.

II. CÁC KIẾN NGHỊ, BỔ SUNG KHÁC:

•    Đối với Nội dung phân loại rác tại nguồn:

Nội dung phân loại rác tại nguồn không đề cập tại Dự thảo Nghị định. Tuy nhiên theo Khoản 2 Điều 75 Luật BVMT: “2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều này trên địa bàn theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường; có chính sách khuyến khích việc phân loại riêng chất thải nguy hại trong chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân.”

Ý kiến của Hiệp hội: Quy định bắt buộc phân loại chất thải rắn đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý chất thải, góp phần tiết kiệm tài nguyên, giảm chi phí cho công tác thu gom và xử lý rác thải. Tuy nhiên việc phân loại như thế nào phải phù hợp với công nghệ xử lý chất thải của từng địa phương và khu vực; nếu địa phương áp dụng công nghệ đốt thì việc phân loại chỉ tập trung phân loại đốt được và loại không đốt được; nếu địa phương áp dụng công nghệ sản xuất phân thì phân loại hữu cơ, vô cơ,…. 

Nội dung Dự thảo Luật BVMT: “1. Chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân thực hiện phân loại như sau:”, Luật Bảo vệ môi trường quy định: “1. Chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân được phân loại theo nguyên tắc như sau:”. 

Như vậy với địa phương áp dụng công nghệ đốt rác, nếu thực hiện đúng nguyên tắc phân loại thì khi xử lý lại đốt chất thải thực phẩm với các loại rác đốt được khác, gây lãng phí và phản ứng ngược; nếu không thì lại sai nguyên tắc của Luật. Cần bổ sung nội dung phân loại vào Dự thảo Nghị định, tạo điều kiện để các địa phương thực hiện theo đúng quy định và đảm bảo hiệu quả.

Hiện nay hầu hết các địa phương đều đã ban hành mức giá thu dịch vụ thu gom rác thải sinh hoạt đối với hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh… áp dụng đối với khu vực nông thôn và thành thị, tuy nhiên vẫn còn 1 vài bộ phận chưa chấp nhận mức thu này. Có địa phương thực hiện đấu thầu thu gom, vận chuyển rác thải sinh hoạt có kèm theo mức thu giá dịch vụ vệ sinh, đơn vị trúng thầu phải thực hiện thêm công đoạn thu tiền dịch vụ vệ sinh nhưng có 1 vài bộ phận không chấp nhận mức giá này và không chịu đóng tiền dịch vụ mà đơn vị thu không thể áp dụng các biện pháp chế tài được (không giống như dịch vụ điện, nước sạch sinh hoạt có thể có chế tài bằng biện pháp cắt điện, nước…) dẫn đến thất thoát khá nhiều. Bởi vậy, Hiệp hội cũng đề nghị bổ sung thêm khung giá chung để thống nhất trong cả nước (làm cơ sở để UBND tỉnh trình HĐND tỉnh phê chuẩn việc ban hành đơn giá thu, tránh tình trạng so sánh giữa các địa phương).

* Về giải thích từ ngữ: Tên gọi “đóng góp” là không phù hợp mà phải gọi đúng tên là Phí bảo vệ môi trường cho phù hợp với Luật Bảo vệ môi trường 2020 để mức thu và cơ chế quản lý thu chi được quản lý theo Luật phí và Lệ phí, bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch.

Từ các Điều 88 đến 189, Dự thảo quy định doanh nghiệp “đóng góp tài chính” vào quỹ bảo vệ môi rường để tái chế bao bì. Nếu gọi “đóng góp” thì phải là tự nguyện, nhưng chúng tôi hiểu rằng đây là khoản thu bắt buộc được tính dựa trên công thức cụ thể và được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 là Phí bảo vệ môi trường. Bản chất đây là một loại phí tương tự như Phí bảo vệ môi trường đối với xăng dầu hay phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản nên cần phải sử dụng tên gọi cụ thể cho khoản đóng góp này. Tên gọi đó có thể là “Phí bảo vệ môi trường đối với việc tái chế bao bì” và phí này phải chịu sự điều chỉnh của Luật phí và Lệ phí để việc thu chi được công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật.

Chương V: Bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đô thị, nông thôn và một số lĩnh vực khác.

Ý kiến của Hiệp hội: Không thấy có nội dung quy định nào về đô thị, nông thôn. Hiện nay ô nhiễm môi trường đô thị và nông thôn tại nhiều địa phương đang nghiêm trọng và nhiều tồn tại cần khắc phục và yêu câu phát triển xanh và phát triển bền vững, hạn chế tác động của biến đổi khí hậu đang là yêu cầu bức xúc
•    Chương VI: Nguồn lực chi cho bảo vệ môi trường

Nên hình thành cơ sở pháp lý về tài chính cho mục này. Cụ thể Doanh nghiệp được trích lập dự phòng cho hoạt động bảo vệ môi trường hằng năm và quỹ cho hoạt động khắc phục sự cố. Các chi phí này đề xuất được hưởng ưu đãi về thuế.

•    Chương  VI: Quản lý chất thải:

Ý kiến của Hiệp hội: Nên bổ sung thêm mục: Quản lý chất thải rắn xây dựng. Vì dạng chất thải này chưa thấy có quy định nào đề cập tới trong cả 4 mục được nêu trong chương này. Nếu nó được xếp vào Mục 3 là chất thải công nghiệp thông thường thì cũng nên có Quy định về loại chất thải này.

Trên đây là một số ý kiến đóng góp Dự thảo Nghị định của Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 của Hiệp hội Môi trường Đô thị và Khu công nghiệp Việt Nam về một số quy định trong Dự thảo Nghị định liên quan đến hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt của các đơn vị trong ngành môi trường đô thị./.

Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị

Bạn cũng có thể thích