Giới khoa học nói gì về xu thế dịch COVID-19 trên thế giới trong 6 tháng tới?
Giới khoa học nói gì về xu thế dịch COVID-19 trên thế giới trong 6 tháng tới?
Với những ai kỳ vọng vào ánh sáng cuối đường hầm COVID-19 trong từ 3 đến 6 tháng tới, họ sẽ phải đón nhận thông tin không mấy tốt lành từ các nhà khoa học.
Theo các nhà khoa học, đại dịch COVID-19 không thể kết thúc trong vòng từ 3 đến 6 tháng tới, thậm chí con người có nguy cơ phải đối phó với dịch bệnh ở cấp độ lớn hơn hiện tại.
Với những ai kỳ vọng vào ánh sáng cuối đường hầm COVID-19 trong từ 3 đến 6 tháng tới, họ sẽ phải đón nhận thông tin không mấy tốt lành từ các nhà khoa học: Hãy chuẩn bị đối phó với dịch bệnh ở cấp độ lớn hơn những gì đã diễn ra. Bùng phát dịch sẽ khiến trường học đóng cửa. Những công dân sống trong trại dưỡng lão sẽ đối diện với lo sợ lây nhiễm quay trở lại. Người lao động sẽ buộc phải cân nhắc nguy cơ khi trở lại làm việc trong bối cảnh bệnh viện trở nên quá tải.
Giới chuyên gia nhìn nhận dịch bệnh chấm dứt chỉ sau khi tất cả công dân đều thuộc diện hoặc đã nhiễm bệnh, hoặc được tiêm đủ liều vaccine. Ngay cả trong trường hợp này vẫn sẽ có một số ít người không may mắn tái nhiễm.
“Tôi cho rằng lây nhiễm đang diễn ra trên thế giới. Rồi xu hướng sẽ lắng dịu. Nhưng tiếp đó tôi nghĩ rằng chúng ta rất dễ phải chứng kiến bùng phát mới vào mùa thu và mùa đông này”, Michael Osterholm, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Chính sách và Bệnh truyền nhiễm tại Đại học Minnesota (Mỹ) nhận định.
Với hàng tỷ người trên thế giới vẫn chưa được tiêm phòng nên không có cơ hội để loại bỏ virus, nguy cơ xảy ra các đợt bùng phát mới tại các lớp học, ở các phương tiện giao thông công cộng, công sở trong những tháng tới là rất cao, đặc biệt khi các nền kinh tế mở cửa trở lại.
Ngay cả khi tỷ lệ tiêm chủng tăng lên, sẽ luôn có những đối tượng dễ bị nhiễm virus như trẻ sơ sinh, những người không thể hoặc không được tiêm chủng …
Vài tháng tới sẽ khó khăn, các chuyên gia đồng nhận định. Một trong những lo ngại là xuất hiện biến thể mới kháng vaccine.
Vài tháng tới sẽ là khoảng thời gian khó khăn. Theo Osterholm, một vài năm tới sẽ là chu kỳ lên xuống của dịch bệnh gắn với thời gian cần thiết để tăng độ che phủ toàn diện của vaccine. Thách thức nằm ở chỗ dịch sẽ ở các mức đỉnh và đáy nào, quãng thời gian tạo đỉnh, rồi đáy và ngược lại sẽ dài bao lâu. “Chúng ta không biết, nhưng tôi có thể nói rằng lây nhiễm virus kiểu cháy rừng sẽ không ngừng lại chừng nào virus vẫn còn tìm thấy đối tượng phù hợp để tấn công và gây cháy”, ông Osterholm nhận định.
Nhà dịch tễ học Lone Simonsen – Giáo sư khoa học sức khỏe dân số tại Đại học Roskilde (Đan Mạch), cho biết đã nghiên cứu sâu diễn biến của 5 đại dịch cúm diễn ra trong 130 năm qua và đưa một số dự đoán về diễn biến COVID-19.
Theo bà Simonsen, các đại dịch cúm toàn cầu dài nhất thường kéo dài 5 năm, chủ yếu bao gồm 2- 4 đợt lây nhiễm trong thời gian trung bình từ 2 -3 năm. COVID -19 đã và đang được định hình là một trong những đại dịch nghiêm trọng hơn, khi năm thứ hai của nó kết thúc mà thế giới vẫn đang ở giữa đợt lây nhiễm thứ ba và chưa có dấu hiệu kết thúc.
Có thể loại virus được gọi là SARS-CoV-2 sẽ không đi theo con đường của các đại dịch trong quá khứ. Rốt cuộc, nó là một mầm bệnh khác, mới lạ và có khả năng lây truyền cao hơn. Với con số tử vong là hơn 4,6 triệu người cho đến nay, số người chết đã cao hơn gấp đôi so số người chết trong bất kỳ dại dịch cúm nào trong lịch sử, kể từ sau dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918.
Bất chấp những biện pháp phòng ngừa gắt gao và tỷ lệ tiêm chủng tương đối cao, các quốc gia bao gồm Mỹ, Anh, Nga và Israel vẫn đang phải đối mặt với tỉ lệ nhiễm bệnh cao ngất ngưởng. Bởi tiêm chủng đang giúp giảm thiểu tỷ lệ ca bệnh nặng và tử vong, song sự lây nhiễm gia tăng có nghĩa là virus đang nhắm đến những người trẻ tuổi và những người vẫn chưa được tiêm chủng, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh nặng trong những nhóm này tăng lên. Các quốc gia nơi tiêm chủng còn thưa thớt – bao gồm Malaysia, Mexico, Iran…, số ca nhiễm mới tăng lên bởi chủng delta dễ lây lan.
Bà Simonsen nói rằng lịch sử cho thấy virus sẽ tự động yếu đi theo thời gian, để tránh xóa sổ hoàn toàn quần thể vật chủ. Tuy nhiên, đây là một quan điểm sai lầm bởi các biến thể mới không phải lúc nào cũng nghiêm trọng hơn các biến thể trước đó của chúng. “Trên thực tế, các đại dịch gây chết chóc nhiều hơn trong thời kỳ đại dịch, vì khi đó virus đang tìm cách xâm nhập và thích nghi với vật chủ mới” – bà Simonsen phân tích.
Vì vậy, có lý do chính đáng để hy vọng rằng vaccine COVID-19 sẽ cung cấp được sự bảo vệ lâu dài, giống như những mũi tiêm ngừa thời thơ ấu để ngăn chặn các bệnh như bại liệt.
Đại dịch COVID-19 sẽ không kết thúc trong 6 tháng tới, đó là điều dễ nhận thấy. Giới chuyên gia về cơ bản đều đồng thuận rằng dịch bệnh sẽ được chế ngự, kiểm soát khi có khoảng 90-95% dân số toàn cầu đạt miễn dịch – có thể thông qua tiêm chủng hay đã từng nhiễm SARS-CoV-2 trước đó. Chìa khóa then chốt vẫn phải là tiêm chủng, bởi “nếu không có tiêm chủng, con người dễ bị tổn thương, bởi virus sẽ lây lan rộng và tấn công ngay trong mùa thu và mùa đông này”, Simonsen nói.
Dữ liệu thống kê của Bloomberg cho thấy, đã có hơn 5,66 tỉ liều vaccine được đưa vào tiêm chủng trên toàn thế giới. Nhưng chiến dịch tiêm chủng mới chỉ thành công ở một vài nhóm nước, như châu Âu, Bắc Mỹ hay Trung Quốc. Những nơi khác mức độ bao phủ vaccine rất hạn chế. Đa phần các nước châu Phi mới chỉ tiếp cận được lượng vaccine đủ tiêm cho 5% dân số ở mức hai liều tiêm. Ấn Độ cũng mới tiêm được cho khoảng 26% dân số.
Theo Giáo sư chuyên ngành lịch sử y khoa Erica Charters, đại dịch sẽ chấm dứt ở từng nơi vào những thời điểm khác nhau – như những gì đã diễn ra trong quá khứ. Chính phủ các nước sẽ phải đưa ra quyết định sẵn sàng sống chung được với dịch bệnh ở cấp độ nào. Cách tiếp cận cũng khác nhau. Dù một số vẫn theo đuổi chiến lược “không COVID-19”, nhưng thế giới gần như chắc chắn sẽ không thể loại bỏ hoàn toàn được virus.
Một số nước như Đan Mạch, Singapore – số thành công trong kiềm chế lây nhiễm ở mức thấp, đang tính đến tương lai hậu đại dịch, giảm biện pháp hạn chế phòng ngừa dịch bệnh. Số khác như Mỹ, Anh lại chọn mở cửa kinh tế ngay cả khi lây nhiễm tiệm cận mức kỉ lúc. Cùng lúc, Trung Quốc, Hong Kong/Trung Quốc và New Zealand vẫn kiên quyết theo đuổi chính sách loại trừ virus trong cộng đồng, theo kiểu “không COVID-19”.
“Tiến trình chấm dứt dịch bệnh sẽ không đồng nhất. Đại dịch là hiện tượng sinh học, nhưng cũng là hiện tượng chính trị và xã hội. Ngay ở thời điểm hiện tại thế giới vẫn có những cách tiếp cận khác nhau khi đối diện với COVID-19”, bà Charters nói.
Tuệ An (T/h)
Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị