Giải pháp thúc đẩy việc sản xuất, sử dụng xe điện hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh và các giải pháp thúc đẩy sản xuất, sử dụng xe điện
Ông Tuấn cho biết, tại Việt Nam để thúc đẩy “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020, tầm nhìn đến năm 2050”, thực hiện cam kết Thỏa thuận Paris về khí hậu tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp quốc (UNFCCC) về biến đổi khí hậu lần thứ 21 (COP21), hiện nay, các chủ trương và định hướng về thúc đẩy sử dụng các dòng xe ô tô thân thiện môi trường đã được xác định trong nhiều văn kiện, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Để hiện thực hóa các mục tiêu và định hướng về tăng trưởng xanh đòi hỏi Việt Nam phải có các chính sách phù hợp, trong đó có vai trò không thể thiếu của các công cụ kinh tế, trong đó có công cụ chính sách thuế để thúc đẩy việc sản xuất, sử dụng các loại hàng hóa thân thiện với môi trường.
Đồng thời, các chủ trương, định hướng thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển bền vững cũng cần phải lồng ghép một cách có hiệu quả vào các chiến lược, kế hoạch phát triển trung và dài hạn của ngành, lĩnh vực có liên quan, trong đó có ngành công nghiệp ô tô.
Thời gian qua, hệ thống các chính sách thuế, phí để thúc đẩy ngành ô tô trong nước phát triển đã liên tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.
Ông Trương Bá Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thuế (Bộ Tài chính).
Về giải pháp thúc đẩy việc sản xuất, sử dụng xe điện, theo ông Tuấn, mới đây Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa ra quy định yêu cầu có lộ trình chuyển đổi, loại bỏ phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch, phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi trường.
Cụ thể, Điều 65 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã có quy định: “Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích phát triển phương tiện giao thông công cộng, phương tiện giao thông sử dụng năng lượng tái tạo, mức tiêu hao nhiên liệu thấp, phát thải thấp hoặc không phát thải; lộ trình chuyển đổi, loại bỏ phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch, phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi trường”.
Tương tự như nhiều quốc gia trên thế giới, đối với Việt Nam, công nghiệp ô tô có vai trò và vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển tổng thể của ngành công nghiệp trong nước. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đề ra định hướng: “Lựa chọn một số ngành công nghiệp để ưu tiên phát triển theo hướng phải đáp ứng các nguyên tắc: Dựa trên kết quả phân tích khách quan lợi thế của đất nước; là ngành có khả năng tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có ý nghĩa nền tảng, có tác động lan toả cao đến các ngành kinh tế khác; sử dụng các công nghệ sạch, thân thiện môi trường; có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao…”.
Cùng với đó, Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2050 đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp: “…thúc đẩy phát triển các phương tiện giao thông sử dụng điện năng phù hợp với xu thế chung trên thế giới.”
Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 cũng đã đề ra định hướng: “Xác định và thiết lập đối tác chiến lược, khuyến khích đầu tư các dự án đủ lớn để tạo dựng thị trường cho công nghiệp hỗ trợ. Khuyến khích sản xuất dòng xe thân thiện môi trường (xe tiết kiệm nhiên liệu, xe hybrid, xe sử dụng nhiên liệu sinh học, xe chạy điện…), đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn khí thải theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt”.
Tuy nhiên, từ thực tiễn phát triển ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, để có thể phát triển một cách hiệu quả, bền vững đòi hỏi cần phải có những giải pháp đồng bộ với tầm nhìn trung và dài hạn. Các giải pháp đưa ra cũng cần được cân nhắc, tính toán kỹ trên nhiều mặt, nhất là trong bối cảnh công nghệ liên tục phát triển, quá trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Những quốc gia đi sau như Việt Nam bên cạnh các yếu tố thuận lợi cũng sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức.
Để thúc đẩy tăng trưởng bền vững, giảm thiểu phát thải khí nhà kính, việc sử dụng các giải pháp về thuế, phí, lệ phí để thúc đẩy sử dụng xe ô tô thân thiện môi trường đã được nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện.
Trong đó, nhiều quốc gia đã có các chính sách về miễn, giảm một số khoản thuế, phí (thuế TTĐB, thuế đăng ký, phí sử dụng đường bộ…).
Tuy nhiên, tùy theo điều kiện, cấu trúc của hệ thống thuế ở từng nước mà các chính sách hỗ trợ cũng rất khác nhau. Trong đó, cũng có nhiều quốc gia áp dụng mức thuế suất thuế TTĐB đối với ô tô điện thấp hơn mức thuế suất đối với xe chạy bằng nhiên liệu hóa thạch tương tự như quy định của Việt Nam hiện nay, ví dụ như ở Malaisia, Thái Lan, Indonesia hay Argentina.
Thậm chí có một số nước còn có những chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người mua xe ô tô điện. Tuy nhiên, đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập hiện nay, việc tham khảo, vận dụng các kinh nghiệm quốc tế là cần thiết, song cũng cần phải phù hợp với bối cảnh, đặc điểm của tình hình kinh tế – xã hội cũng như hiện trạng phát triển ngành ô tô trong nước hiện nay và định hướng phát triển trong tương lai.
Trong bối cảnh này, việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp ô tô nói chung, xe ô tô thân thiện môi trường nói riêng cần phải dựa trên các yêu cầu sau: Đảm bảo phù hợp với các mục tiêu, quan điểm và định hướng đã nêu tại Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị. Trong đó, cần có những chính sách phù hợp để duy trì sự tăng trưởng ổn định của thị trường ô tô trong nước.
Xe điện sẽ hưởng những chính sách ưu đãi nào về thuế phí?
Theo ông Tuấn, tại Việt Nam, với một thị trường ô tô có quy mô còn nhỏ, đang chia ra cho quá nhiều phân khúc, chủng loại xe thì sẽ rất khó cho các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô khai thác được các lợi thế về quy mô để giảm giá thành sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh với các sản phẩm ô tô nhập khẩu.
Việc xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ cho việc sản xuất, sử dụng ô tô thân thiện môi trường nói chung, xe ô tô điện nói riêng phải có tầm nhìn dài hạn và được gắn với các nguyên tắc của thị trường, phù hợp đặc thù về điều kiện, bối cảnh kinh tế – xã hội trong nước.
Đồng thời, phải đảm bảo tuân thủ đúng, đầy đủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã đưa ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với vai trò và vị trí của từng công cụ chính sách. Ví dụ, đối với thuế TTĐB thì bên cạnh tạo nguồn thu cho NSNN, sắc thuế này còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết, định hướng tiêu dùng của xã hội.
Thực hiện hỗ trợ có chọn lọc, có điều kiện và lộ trình cụ thể để tạo nền tảng cho ngành công nghiệp ô tô phát triển vững chắc, có khả năng cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực và khai thác hiệu quả các lợi thế mà xu hướng ô tô hóa dự kiến đem lại trong thời gian tới đây khi mà mức sống người dân trong nước ngày càng được cải thiện.
Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí đối với xe ô tô thân thiện môi trường cần được xác định dựa trên mức độ phát thải, mức độ gây ô nhiễm môi trường của từng loại xe, trong đó, loại xe ô tô chạy hoàn toàn bằng pin (ô tô điện chạy pin) cần có sự ưu đãi cao hơn các chủng loại xe khác, ví dụ xe hybrid.
Việc xây dựng các chính sách thúc đẩy việc sản xuất, sử dụng ô tô thân thiện môi trường, ô tô điện trong nước cần đảm bảo nhất quán với việc thúc đẩy sự phát triển tổng thể của ngành công nghiệp ô tô. Trong đó, cần xử lý hài hòa giữa việc thúc đẩy sử dụng ô tô thân thiện môi trường, ô tô điện với chủ trương phát triển các dòng xe ô tô chiến lược khác đã được xác định trong định hướng phát triển dài hạn của ngành công nghiệp ô tô trong nước.
Để không lãng phí nguồn lực cần có lộ trình chuyển đổi phù hợp từ việc sản xuất xe ô tô sử dụng nhiện liệu hóa thạch sang ưu tiên sản xuất các chủng loại xe ô tô thân thiện môi trường, xe ô tô điện. Đảm bảo sự đồng bộ với các chính sách khác có liên quan. Hiệu quả của chính sách khuyến khích sản xuất, lắp ráp xe ô tô thân thiện môi trường, trong đó có xe ô tô điện, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ sở hạ tầng, thị hiếu tiêu dùng của người dân và giá thành xe.
Cần có những chính sách phù hợp để phát triển cơ sở hạ tầng cho xe ô tô điện.
Hiện nay, hệ thống cơ sở hạ tầng (đường giao thông, nhà ở, chung cư, trung tâm thương mại, văn phòng…) ở nước ta hầu hết chưa được xây dựng để tích hợp hệ thống sạc cho xe ô tô điện. Hệ thống bãi đỗ xe ô tô để có thể tích hợp được trạm xạc pin hiện nay cũng chưa nhiều.
Cùng với đó, tình trạng tắc nghẽn giao thông ở một số thành phố lớn nơi mà thị trường ô tô điện có thể hướng đến ngày càng trầm trọng cũng sẽ ảnh hướng đến sự yên tâm cũng như tâm lý của người dân trong việc sử dụng xe ô tô điện.
Việc có những chính sách ưu đãi đối với sản xuất, sử dụng xe ô tô thân thiện môi trường trong bối cảnh hiện nay là cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, bên cạnh thúc đẩy sử dụng xe ô tô điện trong nước, việc áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế, phí hay các chính sách ưu đãi tài chính khác (nếu có) đối với xe ô tô thân thiện môi trường cũng sẽ khuyến khích sử dụng các dòng xe này từ nguồn nhập khẩu.
Theo đó, các giải pháp thúc đẩy việc sản xuất, sử dụng ô tô điện cũng cần được nhìn nhận, đánh giá từ các định hướng phát triển tổng thể của ngành công nghiệp ô tô trong nước và với tầm nhìn dài hạn như đề cập ở trên. Ngoài ra, việc sử dụng xe ô tô điện, bên cạnh những lợi ích mang lại cũng đang đặt ra một số vấn đề có liên quan cần phải được cân nhắc, xử lý hài hòa, ví dụ như khả năng hấp thụ của hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, nhất là ở các thành phố lớn hay ảnh hưởng đến môi trường của pin ô tô đã qua sử dụng hay từ quá trình sử dụng nguồn điện để sạc pin.
Lợi ích mà việc sử dụng xe ô tô điện mang lại là giảm phát thải, thúc đẩy bảo vệ môi trường nhưng việc sử dụng xe ô tô điện cũng sẽ gián tiếp phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính nếu quá trình sạc điện cho hệ thống pin của xe lại được lấy từ nguồn điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch mà không phải là nguồn điện “sạch”.
Theo đó, cần phải có các chính sách, cơ chế đồng bộ để đảm bảo các dòng xe này thực sự là xe “sạch” và không làm phát sinh các hệ lụy đối với môi trường trong tương lai.
Bên cạnh đó, ngoài các chính sách ưu đãi về thuế, phí, để khuyến khích sản xuất, sử dụng xe ô tô thân thiện môi trường, kinh nghiệm các nước cho thấy bên cạnh chính sách thuế, phí có thể sử dụng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác như các khoản hỗ trợ về tín dụng cho người sử dụng.
Ngoài ra, cần phải có những chính sách phù hợp để phát triển cơ sở hạ tầng cho xe ô tô điện (hạ tầng giao thông, quỹ đất để bố trí trạm sạc…); phát triển các nguồn năng lượng tái tạo để cung cấp nguồn điện sạch cho các trạm sạc điện hay phát triển ngành CNHT để cung cấp linh kiện, phụ tùng cho sản xuất, lắp ráp xe ô tô điện. Đồng thời, cần phải đẩy mạnh công tác truyền thông về vai trò của việc BVMT trong bối cảnh hiện nay và sự cần thiết phải chuyển hướng sang sử dụng các phương tiện, hình thức vận tải thân thiện với môi trường như xe ô tô điện.
Nam Dương