DN xi măng bám thị trường để điều chỉnh sản xuất

(Xây dựng) – Khép lại năm 2022 đầy biến động, nhiều khó khăn với ngành sản xuất nói chung và lĩnh vực sản xuất xi măng nói riêng, các DN xi măng tiếp tục hành trình chinh phục các kế hoạch sản xuất kinh doanh trong năm 2023.

DN xi măng bám thị trường để điều chỉnh sản xuất

Biến động và cạnh tranh

Năm 2022 là năm đầy biến động, khi xung đột giữa Nga và Ukraine tác động đến kinh tế toàn cầu với nhiều bất lợi; Trung Quốc duy trì chính sách “Zero Covid”, phong toả các cảng biển… đã ảnh hưởng đến giao thương của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Biến động lớn nhất với ngành Xi măng trong năm qua chính là giá nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất xi măng như xăng, dầu, than,… tăng cao, đặc biệt giá than nhập khẩu tăng mạnh, nguồn cung than khan hiếm. Giá than thế giới bình quân năm 2022 là 360,42 USD/tấn, có thời điểm tăng đến 490 USD/tấn, tăng 162,54% so với bình quân năm 2021 (137,28 USD/tấn). Đối với giá than trong nước, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã điều chỉnh tăng giá bán 3 lần, tăng khoảng 40 – 45% so với thời điểm tháng 12/2021 (mỗi lần tăng 10 – 15% đối với một số chủng loại than). Giá xăng dầu trong nước bình quân năm 2022 tăng 28,01% so với năm 2021.

Thị trường xi măng trong nước tiếp tục cạnh tranh khốc liệt do “cung” vượt “cầu” (nguồn cung xi măng là 107 triệu tấn, trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ xi măng trong nước năm 2022 dự kiến khoảng 62,2 – 62,5 triệu tấn). Thị trường BĐS trầm lắng; giải ngân vốn đầu tư công còn chậm đã ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu tiêu thụ xi măng trong nước. Thị trường xuất khẩu năm 2022 gặp khó khăn do chính sách kiểm soát dịch bệnh tại Trung Quốc, bảo hộ sản xuất xi măng trong nước tại Philippines, cạnh tranh từ các nguồn cung dư thừa tại Trung Đông, Đông Nam Á…, giá xuất khẩu clinker xuống thấp làm cho tồn kho tăng cao, một số nhà máy phải dừng lò nung để tránh việc đổ clinker ra bãi.

Doanh nghiệp kêu khó đủ đường

Khó khăn chồng chất – đó là bức tranh khái quát khi các DN xi măng nhìn nhận về thị trường sản xuất và tiêu thụ xi măng năm 2023. Thách thức đầu tiên các DN xi măng phải đối mặt giải quyết, đó là thị trường xi măng dư cung cao, cung vượt cầu.

Xi măng được coi là “bánh mỳ” của ngành Xây dựng. Phát triển các dự án BĐS sẽ kéo theo tiêu thụ xi măng tăng. DN xi măng đang trông chờ tín hiệu từ thị trường này, như các chuyên gia VNDirect tin rằng có thể xuất hiện chỉ báo sớm cho sự cải thiện của ngành vào cuối năm 2023, bao gồm: Giá nguyên liệu đầu vào giảm (than cốc, than nhiệt, thép phế liệu); việc Trung Quốc mở cửa kinh tế trở lại và đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng sẽ thúc đẩy nhu cầu thép và xi măng toàn cầu phục hồi.

Hy vọng vào đầu tư công?

Tuy nhiên, TS Nguyễn Văn Đính – Phó chủ tịch Hiệp hội BĐS Việt Nam kiêm Chủ tịch Hội Môi giới BĐS Việt Nam phân tích: Sẽ có 2 kịch bản xảy ra với thị trường BĐS trong năm 2023. Kịch bản thứ nhất, sau Tết Quý Mão, Chính phủ sẽ có một số chính sách điều chỉnh, thị trường sẽ dần ấm lên và ổn định đến cuối năm. Kịch bản 2 là thị trường BĐS năm 2023 vẫn còn khó khăn bởi dòng vốn chưa được khơi thông. Như vậy, tiêu thụ xi măng vào kênh xây dựng các dự án BĐS vẫn trông chờ phía trước.

PGS.TS Hồ Sỹ Hùng – Phó chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại DN cho biết, khi kinh tế suy giảm thì tăng đầu tư công chính là giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng, nhất là trong điều kiện cụ thể hiện nay, khi mà dư địa của chính sách tiền tệ không còn nhiều, dư địa của chính sách tài khóa còn tương đối tốt nhờ những nỗ lực để đảm bảo cân đối tài chính ngân sách thời gian qua, tỷ lệ nợ công, bội chi ở mức thấp so với trần quy định. Do đó, việc nới thêm các chỉ tiêu để mở rộng chính sách tài khóa, sẽ tăng thêm nguồn lực cho đầu tư công (chi đầu tư phát triển khoảng gần 730 nghìn tỷ, cao hơn 2022 được phân bổ là gần 530 nghìn tỷ). Trong mảng tối, mảng sáng của thị trường, đầu tư công là hy vọng của thị trường xi măng năm 2023. Ngành Xi măng sẽ phải tiếp tục kỳ vọng vào những tín hiệu tích cực từ việc giải ngân mạnh mẽ của Chính phủ.

Xuất khẩu là “cứu cánh” cho DN?

Xuất khẩu xi măng là “cứu cánh” khi thị trường xi măng dư cung cao nhưng năm 2023 dự báo xuất khẩu gặp khó. Theo báo cáo “Triển vọng vĩ mô và chiến lược đầu tư 2023” của VNDirect, các DN sản xuất thép và xi măng Việt Nam đang phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, như nhu cầu xây dựng toàn cầu giảm, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao và dư thừa nguồn cung đáng kể từ quý III/2022.

Dự báo trong năm 2023, với tình hình thế giới diễn biến phức tạp bởi dịch bệnh và xung đột Nga – Ukraina, có thể một số quốc gia sẽ khủng hoảng, suy thoái về kinh tế. Điều này sẽ tác động không nhỏ đến kinh tế trong nước và ảnh hưởng thị trường tiêu thụ sản phẩm VLXD của Việt Nam, đặc biệt lĩnh vực xuất khẩu xi măng.

Số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu xi măng lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, do nhu cầu xây dựng yếu đi tại Trung Quốc, xuất khẩu xi măng của Việt Nam sang thị trường này giảm đáng kể.

Các nước nhập khẩu xi măng, clinker tiếp tục thực hiện nhiều chính sách bảo hộ sản xuất xi măng trong nước, áp dụng hàng rào kỹ thuật thương mại, giá cước vận chuyển cao gây khó khăn cho DN. Từ ngày 01/01/2023, sẽ điều chỉnh tăng thuế xuất khẩu đối với mặt hàng clinker từ 5% lên 10% nhằm hạn chế xuất khẩu. Từ tháng 10/2023, các sản phẩm thép, xi măng, phân bón, nhôm, điện và hydro vào châu Âu sẽ chịu chính sách điều chỉnh biên giới carbon của châu Âu. Nếu DN sản xuất xăng muốn xuất khẩu đến thị trường này, trong sản xuất buộc phải tính đến việc giảm phát thải các bon, hướng đến sản xuất xanh, bền vững.

Cần xem xét lại quy hoạch và cấp phép dự án xi măng

Theo Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam Nguyễn Quang Cung, từ năm 2019 đến nay không còn quy hoạch ngành nữa, việc xét duyệt chủ yếu do địa phương kiến nghị Thủ tướng Chính phủ. Nếu không có quy hoạch, khi hàng loạt nhà máy xi măng ra đời, sẽ nâng tổng công suất lên, gây chênh lệch cung cầu rất lớn.

Ông Cung kiến nghị, cần phải xem xét lại việc thực hiện quy hoạch, cấp phép cho các dự án xi măng. Đây là vấn đề cốt lõi để hạn chế nguồn cung. Ngành xi măng không phải là ngành hàng hóa thông thường, để xây dựng một nhà máy cần đầu tư sản xuất gắn với tài nguyên khoáng sản, các thủ tục đầu tư theo một quy trình nghiêm ngặt đúng pháp luật, là phương thức đầu tư lâu dài nên xi măng không phải là quy hoạch của một ngành.

Nắm bắt diễn biến thị trường để điều chỉnh sản xuất

Theo Vụ Vật liệu xây dựng, dự kiến nhu cầu tiêu thụ xi măng toàn ngành năm 2023 khoảng 100 – 105 triệu tấn (dự kiến tăng 7 – 10% so với năm 2022); tiêu thụ nội địa khoảng 60 – 65 triệu tấn và xuất khẩu khoảng 35 – 40 triệu tấn.

Để bình ổn thị trường xi măng, Bộ Xây dựng đề xuất triển khai các giải pháp cụ thể như: Tiếp tục áp dụng khoa học kỹ thuật để phát huy đạt và vượt công suất thiết kế, giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm. Đẩy mạnh việc tận dụng phế thải công nghiệp làm nguyên, nhiên liệu đầu vào sản xuất xi măng; kết hợp nghiên cứu phát triển các loại xi măng bền sun phát phục vụ xây dựng dự án, công trình ven biển, hải đảo.

Bộ Xây dựng khuyến cáo các DN cần nắm bắt diễn biến thị trường xi măng thế giới để điều chỉnh kịp thời hoạt động sản xuất, tăng giảm nguồn cung để giữ giá bán ổn định; đặc biệt phải có chiến lược dài hạn về hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Chính phủ sẽ có chính sách phù hợp để điều chỉnh giá bán các mặt hàng trọng yếu (như điện, than, xăng, dầu) là đầu vào của ngành sản xuất xi măng.

Thời gian tới, toàn ngành Xi măng phấn đấu giảm chi phí sản xuất, lưu thông để giảm giá bán, bình ổn, cân đối cung cầu và kiềm chế tốc độ tăng giá trong năm 2023. Cam kết đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ của thị trường và bình ổn giá ở mức độ hợp lý.

Nguồn: Báo xây dựng

Bạn cũng có thể thích