Đảm bảo thực hiện EUDR đối với các sản phẩm xuất khẩu vào EU

Ông Rui Ludovino – Tham tán thứ nhất về Hành động Khí hậu, Môi trường, Việc làm và Chính sách xã hội, Phái đoàn EU tại Việt Nam, khẳng định: “EUDR sẽ góp phần giảm nạn phá rừng toàn cầu và suy thoái rừng trên toàn thế giới, từ đó giảm phát thải khí nhà kính và giúp giải quyết hai cuộc khủng hoảng lớn đương đại: mất đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu”.

Sự gia tăng nhu cầu và thương mại của EU đối với các mặt hàng và sản phẩm hợp pháp, không phá rừng sẽ tạo cơ hội cho nông dân quy mô nhỏ ở Việt Nam. Việc tuân thủ EUDR sẽ cải thiện hệ thống sản xuất của doanh nghiệp, nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm và khả năng truy xuất nguồn gốc theo chuỗi cung ứng; nhờ vậy, giá sản phẩm và sinh kế của nông dân cũng sẽ được cải thiện.

Vùng cà phê của Simexco DakLak được cấp chứng nhận tuân thủ EUDR. Ảnh: nongnghiep.vn

“EUDR yêu cầu các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu vào thị trường EU và xuất khẩu từ EU không có nguồn gốc từ đất do phá rừng hoặc góp phần vào suy thoái rừng tính từ thời điểm 30/12/2020”, ông Rui Ludovino thông tin.

Thông qua EUDR, EU hướng tới giảm thiểu sự đóng góp của liên minh vào phá rừng và suy thoái rừng trên toàn cầu và từ đó giảm thiểu tác động đến biến đổi khí hậu, phát thải khí nhà kính và mất đa dạng sinh học. Hơn nữa, EU cũng mong muốn đóng góp vào thực hiện Thỏa thuận Paris, các mục tiêu phát triển bền vững, Tuyên bố Glasgow về rừng, sử dụng đất và khung đa dạng sinh học toàn cầu Kunming-Montreal.

“EUDR chỉ tập trung vào các doanh nghiệp, không phải các quốc gia hoặc nhà sản xuất tại nước thứ ba. Đây là cách tiếp cận chuyển đổi từ tự nguyện hướng tới một khung pháp lý chặt chẽ, nhằm yêu cầu các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa vào thị trường EU phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm giải trình”, ông Rui Ludovino nhấn mạnh.

Khẳng định Việt Nam sẵn sàng đáp ứng EUDR, ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn – Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cho biết đáp ứng EUDR không chỉ là tuân thủ yêu cầu của thị trường có tiêu chuẩn cao của xuất khẩu nông sản, mà còn là cơ hội để nền nông nghiệp của chúng ta có thể chuyển đổi theo hướng xanh, bền vững đúng với định hướng về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Theo ông Tuấn, ngay từ khi phía Ủy ban châu Âu (EC) ban bố EUDR, Việt Nam đã nhanh chóng thực hiện lộ trình thích ứng với EUDR. Đến tháng 7 năm 2023, Việt Nam đã ban hành Khung Kế hoạch hành động thích ứng với EUDR, sau đó Bộ trưởng gửi thư cho Chủ tịch UBND các tỉnh đề nghị phối hợp triển khai khung Kế hoạch hành động này.

Đề cập về lộ trình thực thi các giải pháp kỹ thuật thích ứng với EUDR tại Việt Nam, ông Nguyễn Trung Kiên – Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết nhiều ngành hàng nông sản tại Việt Nam như cà phê, cao su đã triển khai lộ trình thích ứng với EUDR.

Trong lĩnh vực cà phê, Nhóm PPP ngành hàng cà phê do Cục Trồng trọt, Nestlé và JDE đồng chủ trì làm đầu mối triển khai các hoạt động thích ứng EUDR. Từ tháng 1 – 7 năm 2024, đã triển khai giải pháp thí điểm đáp ứng yêu cầu của EUDR tại Đắk Lắk và Lâm Đồng. Tháng 2 năm 2024, thành lập liên minh công tư nhằm chia sẻ và bảo mật thông tin, dữ liệu về xây dựng hệ thống rừng và vùng sản xuất đáp ứng EUDR tại Đắk Lắk và Lâm Đồng. Dự kiến mở rộng sang Gia Lai.

Nhóm PPP ngành lâm nghiệp đã thành lập Tổ công tác xây dựng và thực hiện Kế hoạch thích ứng với EUDR của Cục Lâm nghiệp ngày 3/7/2024. Nhóm này đã xây dựng các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật đáp ứng Quy định EUDR cho các ngành hàng cà phê, gỗ và sản phẩm gỗ, cao su. Đồng thời, chủ động xây dựng các gói giải pháp kỹ thuật và gửi cho EC đề nghị phản hồi.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng đang huy động các nguồn lực cho thích ứng với EUDR. Đến nay, đã có một số dự án do EU đồng tài trợ. Cụ thể, Dự án “Nông nghiệp bền vững vì hệ sinh thái rừng” (SAFE) do EU và Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Đức (BMZ) đồng tài trợ thông qua Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ). Dự án hỗ trợ chuyển đổi bao trùm hướng tới chuỗi cung ứng cà phê bền vững, hợp pháp và không phá rừng ở Brazil, Ecuador, Zambia, Việt Nam và Congo.

Dự án “Cam kết với Indonesia, Malaysia, Lào, Thái Lan và Việt Nam nhằm nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự hiểu biết tốt hơn về Quy định của EU về giảm nạn phá rừng và suy thoái rừng” cũng do EU và BMZ đồng tài trợ.

Về phía đại diện Cục Lâm nghiệp cho hay, tiến trình thích ứng với EUDR tại Việt Nam có những thuận lợi: Việt Nam đã và đang thực hiện nhiều sáng kiến về bảo vệ và phát triển rừng: đã dừng khai thác gỗ từ rừng tự nhiên từ năm 2014; doanh nghiệp Việt Nam đã quen với Quy chế gỗ 995/2010 của EU, đã thực thi VPA /FLEGT, thực thi Thỏa thuận Gỗ với Hoa Kỳ.

Chia sẻ về những khó khăn trong quá trình thích ứng với EUDR, Cục Lâm nghiệp cho biết cơ sở dữ liệu ngành lâm nghiệp vẫn còn thiếu, không đồng nhất, chưa có bản đồ ranh giới rừng 2020 đáp ứng yêu cầu của EUDR. Trong khi đó, chuỗi cung các ngành hàng nông sản tại Việt Nam thường dài, phức tạp, nhỏ lẻ, việc tuân thủ truy xuất hạn chế. EU chưa có hướng dẫn cụ thể về phương pháp và chỉ số giám sát thực hiện EUDR.

Ngay từ khi EC ban bố EUDR, Cục Lâm nghiệp đã triển khai nhiều hoạt động: xác định rừng định nghĩa theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc FAO (diện tích lớn hơn 0,5 ha, độ tàn che hơn 10%); kiểm tra bằng ảnh vệ tinh đa thời gian và không gian để quản lý rừng, xác định vị trí tọa độ thửa đất canh tác, diện tích rừng để truy xuất đến vị trí địa lý lô canh tác. Từ đó, hoàn thiện bản đồ rừng vệ tinh tại Việt Nam.

Duy Trinh (t/h)

Nguồn: Tạp chí điện tử chất lượng Việt Nam

Bạn cũng có thể thích