Công nhận đất ở cho người sử dụng đất chưa có sổ đỏ

(TN&MT) – Việc công nhận đất ở được thực hiện căn cứ vào điều kiện, tập quán tại địa phương quy định hạn mức công nhận đất ở. Nếu diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng….

Cử tri tỉnh Trà Vinh phản ánh: Tại Điều 103 Luật Đất đai 2013 quy định xác định diện tích đất ở đối với trường hợp có vườn, ao; Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai.

Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường cho ý kiến trong trường hợp này có được công nhận và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất với diện tích đất ở hay không? Trường hợp không được công nhận đất ở thì xác định lại đất nào để cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định công nhận quyền sử dụng đất.

cong-nhan-dat-o.jpg
Ảnh minh họa

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, tại Điều 103 Luật Đất đai quy định việc xác định diện tích đất ở trong cùng một thửa đất đang có nhà ở đối với trường hợp thửa đất có vườn, ao của hộ gia đình, cá nhân. Theo đó, tại khoản 5 Điều 103 quy định, việc xác định diện tích đất ở đối với trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai mà đã sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993.

Tại Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01/7/2004 mà không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật Đất đai, Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và không vi phạm pháp luật đất đai.

Căn cứ quy định của pháp luật nêu trên, đối với trường hợp việc sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật Đất đai, Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP mà đất đã sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993 thì diện tích đất ở được xác định theo mức quy định tại khoản 4 Điều 103 Luật Đất đai và khoản 1 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP (việc công nhận đất ở được thực hiện căn cứ vào điều kiện, tập quán tại địa phương quy định hạn mức công nhận đất ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó). Trường hợp đất đã sử dụng ổn định kể từ ngày 15/10/1993 thì diện tích đất ở được xác định theo mức đất ở giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 143 và khoản 4 Điều 144 Luật Đất đai và khoản 5 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP.

Phần diện tích đất vườn, ao còn lại sau khi đã xác định diện tích đất ở theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 vả 5 Điều 103 Luật Đất đai thì được xác định sử dụng vào mục đích hiện trạng đang sử dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật Đất đai (khoản 6 Điều 103). Phần diện tích còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các điểm a, b, c khoản 2 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo quy định tại khoản 5 Điều 20 Luật Đất đai.

Bạn cũng có thể thích