Chuyên gia quốc tế cảnh báo về mối đe dọa từ ô nhiễm hữu cơ tại Việt Nam

Buổi tọa đàm nằm trong khuôn khổ sự kiện InnovaConnect do Quỹ VinFuture phối hợp cùng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức ngày 19/6. Tọa đàm đã thu hút sự tham dự của hơn 150 giảng viên, sinh viên cùng những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực môi trường trong nước và quốc tế.

Toạ đàm “Tác động của các chất ô nhiễm hữu cơ đến môi trường và sức khỏe con người: Thách thức và giải pháp” trong khuôn khổ sự kiện InnovaConnect thu hút hơn 100 người tham dự.

Báo động tình trạng ô nhiễm chất hữu cơ

Nói về vấn đề ô nhiễm môi trường cùng những thách thức lớn nhất mà nhân loại đang phải đối mặt, GS. Kenneth Leung – Hiệu trưởng Trường Năng lượng và Môi trường, Đại học Thành phố Hồng Kông (Trung Quốc) cho biết, ngành hóa chất đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nhưng việc lạm dụng chúng đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe.

Nhiều loại hóa chất mới được đưa ra thị trường mỗi năm mà không có đủ thông tin về độc tính hay khả năng tồn lưu trong môi trường. Chất ô nhiễm hữu cơ không chỉ gây hại cho sức khỏe con người mà còn ảnh hưởng đến chất lượng nước, đa dạng sinh học biển và toàn bộ hệ sinh thái.

GS. Kenneth Leung – Giáo sư ngành Độc chất học và Hóa học Môi trường, Hiệu trưởng Trường Năng lượng và Môi trường và Giám đốc Phòng thí nghiệm Trọng điểm Quốc gia về Ô nhiễm biển tại Đại học Thành phố Hồng Kông (Trung Quốc) tóm tắt thành tựu nghiên cứu về các chất ô nhiễm mới nổi

Trong khi đó, PGS. Từ Bình Minh, Giảng viên cao cấp và chuyên gia trong lĩnh vực hóa học phân tích và hóa học môi trường tại Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ rằng trong hơn hai thập kỷ qua, Việt Nam rất nỗ lực để giải quyết vấn đề chất ô nhiễm hữu cơ, đặc biệt là dioxin sót lại sau chiến tranh. Tuy nhiên, những hóa chất mới vẫn là vấn đề nan giải. Các nghiên cứu chỉ ra rằng các khu vực thu gom và tái chế thủ công ở Việt Nam là điểm nóng ô nhiễm, nơi các chất độc hại như Polybrominated Diphenyl Ethers (PBDE) và Hydrocacbon thơm đa vòng (PAH) tồn tại với hàm lượng cao.

PGS. TS Từ Bình Minh – Giảng viên cao cấp và Chuyên gia về hóa học phân tích & hóa học môi trường tại Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) cảnh báo về hợp chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy và chắt gây rối loạn nội tiết (EDCs) tại Việt Nam

Mức độ phơi nhiễm các chất gây rối loạn nội tiết (EDC) trong nhà ở Việt Nam cũng tương đối cao so với một số nước công nghiệp phát triển. “Trẻ em là nhóm nhạy cảm và dễ bị tổn thương nhất khi tiếp xúc với hóa chất. Ngoài ra, những người làm việc trong môi trường có khả năng phát thải EDC, chẳng hạn như các khu công nghiệp và các khu thu gom tái chế rác thải thủ công, cũng rất dễ bị tổn thương”, PGS. Từ Bình Minh nhận định.

Đồng quan điểm, GS. Ming Hung Wong – Giáo sư Cố vấn và Chủ nhiệm Nghiên cứu (Khoa học Môi trường) tại Đại học Giáo dục Hồng Kông (Trung Quốc) cho biết tình trạng ô nhiễm nhựa đang rất nghiêm trọng ở châu Á. Theo ông, người dân thường xuyên sử dụng túi ni lông, hộp nhựa để đựng thực phẩm, thậm chí là hâm nóng thức ăn bằng lò vi sóng trong hộp nhựa, khiến các hóa chất độc hại dễ dàng nhiễm vào thực phẩm.

GS. Ming Hung Wong (Đại học Giáo dục Hồng Kông, Trung Quốc) – Top 2% Nhà khoa học hàng đầu Thế giới (theo Đại học Stanford 2020-2023) trình bày về Quản lý chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy và các hóa chất mới nổi tại toạ đàm

Kêu gọi sự chung tay và hợp tác quốc tế

Các chuyên gia đều thống nhất rằng cần có sự chung tay vào cuộc của tất cả các bên liên quan, bao gồm các cơ quan chính phủ, cộng đồng địa phương, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các nhà khoa học.

GS. Kenneth Leung nhấn mạnh vai trò của giám sát môi trường đối với công tác quản lý chất lượng nước. Ông cho biết trong 30 năm qua, Hồng Kông đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc cải thiện chất lượng môi trường nhờ vào các biện pháp kiểm soát chất ô nhiễm hữu cơ một cách bài bản và có hệ thống. GS cũng khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở hạ tầng xanh như hệ thống xử lý nước thải, song song chia sẻ công nghệ và hỗ trợ tài chính cho các nước đang phát triển để giảm thiểu ô nhiễm trên toàn cầu.

Trong khi đó, theo GS. Ming Hung Wong, cần phải có các quy định chặt chẽ hơn về việc sản xuất và sử dụng hóa chất, đồng thời thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững, nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của hóa chất đối với sức khỏe và môi trường.

Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng mạng lưới phòng thí nghiệm chất lượng cao trên quy mô quốc gia và khu vực để giám sát hóa chất độc hại, PGS. Từ Bình Minh chia sẻ: “Việt Nam cần tăng cường năng lực quốc gia về đo lường và giám sát các hóa chất này. Đồng thời, chúng ta cần phải tích cực tham gia vào các chương trình hợp tác và giám sát quốc tế để tiếp cận những kiến thức, nguồn lực và chuyên môn tốt nhất”.

Ở góc độ hợp tác, PGS. Từ Bình Minh cho biết, thông qua các dự án hợp tác quốc tế, các nước đang phát triển đã có cơ hội tiếp cận với những giải pháp quản lý hóa chất hiệu quả, đồng thời nâng cao năng lực giám sát và đánh giá rủi ro đối với hệ sinh thái và sức khỏe con người. Việc tham gia vào các chương trình giám sát quốc tế như Chương trình Quan sát Vẹm xanh (Mussel Watch) và Chương trình Giám sát Cửa sông Toàn cầu (Global Estuaries Monitoring – GEM) là rất cần thiết để Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm và tiếp cận với những công nghệ tiên tiến.

GS. Kenneth Leung cũng cho rằng, mỗi quốc gia cần nỗ lực bảo vệ các tuyến đường thủy và cửa sông, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ các quốc gia khác, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong công tác xử lý nước thải, quản lý chất thải và giám sát ô nhiễm.

VinFuture – Cầu nối khoa học thế giới và Việt Nam

Trong khuôn khổ sự kiện InnovaConnect, dưới sự hỗ trợ kết nối của Quỹ VinFuture, đại diện Trường Năng lượng và Môi trường của Đại học Thành phố Hồng Kông và Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã ký thỏa thuận hợp tác về trao đổi học thuật. Theo đó, trong thời gian tới, hai trường sẽ triển khai việc gửi các đoàn học giả, nhà nghiên cứu và cán bộ quản lý tham gia các hoạt động trao đổi học thuật và hợp tác; xây dựng các chương trình trao đổi sinh viên và chương trình cấp bằng hoặc khóa đào tạo chung. Hai trường nhất trí việc thúc đẩy hợp tác nghiên cứu học thuật, chia sẻ và công bố các kết quả nghiên cứu chung và trao đổi các báo cáo hoạt động nghiên cứu. 

Thành Long

Nguồn: Tạp chí điện tử chất lượng Việt Nam

Bạn cũng có thể thích