Chuyên gia IPPF: “Tình hình SKSS ở Việt Nam thể hiện một loạt sự tương phản khó hiểu”
Chuyên gia IPPF: “Tình hình SKSS ở Việt Nam thể hiện một loạt sự tương phản khó hiểu”
Ông Brayant Gonzales – chuyên gia IPPF cho rằng, tình hình SKSS ở Việt Nam thể hiện một loạt sự tương phản khó hiểu, đặc biệt là khi liên quan đến lứa tuổi vị thành niên.
Việt Nam là một quốc gia có luật và chính sách về sức khỏe sinh sản và quyền tiến bộ nhất ở Đông Nam Á, không chỉ ở quy mô tổng thể mà còn tập trung vào các khía cạnh cụ thể về sức khỏe sinh sản.
Mặc dù đã có những chính sách như vậy nhưng tình trạng mang thai ngoài ý muốn ở phụ nữ từ 15 – 49 tuổi, đặc biệt là trong nhóm thanh thiếu niên từ 15 – 19 tuổi vẫn đang diễn ra.
Ngoài ra, tỉ lệ phá thai tiếp tục duy trì ở mức cao khi đặt Việt Nam vào số các nước có tỷ lệ phá thai cao nhất trong khu vực và trên toàn thế giới.
Ông Brayant Gonzales – chuyên gia IPPF cho rằng, tình hình sức khỏe sinh sản ở Việt Nam thể hiện một loạt sự tương phản khó hiểu, đặc biệt là khi liên quan đến lứa tuổi vị thành niên và ở một mức độ nhất định là dân số nói chung.
Ông Brayant Gonzales – chuyên gia IPPF
Một mặt, Chính phủ Việt Nam đã thiết lập những luật và chính sách về sức khỏe và quyền sinh sản (SRHR) có tính thống nhất, mà trong các bối cảnh khác có thể được hiểu là một mục tiêu lý tưởng quá xa vời để thực hiện được. Một loạt các luật và chính sách tiến bộ về SRHR và một số nội dung trong đó đã được Quốc hội Việt Nam thông qua và Chính phủ triển khai.
Những luật và chính sách này được kỳ vọng sẽ góp phần cải thiện sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục và quyền của các gia đình Việt Nam, cải thiện sức khỏe, quyền và hạnh phúc của phụ nữ và trẻ em gái, đồng thời giúp đất nước đạt được tiến bộ kinh tế xã hội chung.
Ông Brayant dẫn chứng: “Vào năm 2019 Việt Nam có tỷ lệ phổ biến sử dụng biện pháp tránh thai cao nhất ở Đông Nam Á, chỉ bằng Thái Lan vào năm 2021. Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại (mCP) và tỷ lệ ước tính phụ nữ được đáp ứng nhu cầu kế hoạch hóa gia đình bằng biện pháp tránh thai hiện đại (mDS) được coi là cao nhất trong khu vực, lần lượt là 48,8% và 78%. Tỷ lệ phụ nữ ước tính có nhu cầu chưa được đáp ứng bằng các biện pháp tránh thai hiện đại (mUN) ở Việt Nam cũng là một trong những nước thấp nhất trong các quốc gia thuộc FP2030 tại Đông Nam Á”.
Mặt khác, có những yếu tố sức khỏe sinh sản, đặc biệt là sức khỏe sinh sản vị thành niên và nạo phá thai, dường như đi ngược lại xu hướng của yếu tố liên quan nhất với chúng trong số các yếu tố sức khỏe sinh sản khác – kế hoạch hóa gia đình.
Chuyên gia IPPF chỉ ra, một cuộc khảo sát do Tổng cục Thống kê Việt Nam thực hiện năm 2016 cho thấy có sự xuất hiện của các cuộc “phá thai bí mật” và 70% các ca phá thai đó “liên quan đến thanh thiếu niên từ 13 đến 19 tuổi”. Mặc dù thuật ngữ phá thai bí mật chưa được định nghĩa, nhưng dữ liệu điều tra chính thức chỉ có dữ liệu về phá thai tại các cơ sở y tế công lập, do đó loại trừ các ca phá thai tại các cơ sở y tế tư nhân.
“Cuộc khảo sát nói trên cũng cho thấy 36% thanh thiếu niên Việt Nam trong độ tuổi từ 14 đến 17 đã quan hệ tình dục, trong khi ít nhất 8,4% phụ nữ trẻ từ 15 đến 24 tuổi đã từng phá thai ít nhất một lần” – Ông Brayant cho biết.
Giải pháp và khuyến nghị nhằm giải quyết vấn đề mang thai ngoài ý muốn và nạo phá thai ở vị thành niên tại Việt Nam
Theo ông Brayant, Việt Nam là quốc gia nổi bật trong số các quốc gia Đông Nam Á về bộ luật và chính sách rất tiến bộ về quyền và sức khỏe sinh sản và tình dục.
Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng hành động phê duyệt chính sách chỉ là một giai đoạn trong toàn bộ quy trình chính sách vì việc thực hiện và đánh giá là một phần rất quan trọng của quá trình hoạch định chính sách.
Hội thảo “Giải quyết vấn đề mang thai ngoài ý muốn ở Việt Nam”
Ngoài các tiêu chuẩn đã được thiết lập giúp xác định việc thực hiện chính sách, còn có các yếu tố và tác nhân cụ thể khác mà việc thực hiện chính sách phải giải quyết.
Dự án Add it Up khuyến nghị cần nỗ lực đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản thiết yếu tại Việt Nam. Đối với thanh thiếu niên, nó chỉ tập trung vào hai điều.
Một là, tác động dựa trên kết quả của việc đáp ứng nhu cầu của phụ nữ đối với các dịch vụ sức khỏe sinh sản và tình dục thiết yếu;
Hai là, đầu tư vào việc đáp ứng nhu cầu của phụ nữ đối với các dịch vụ sức khỏe sinh sản và tình dục thiết yếu. Các dịch vụ sức khỏe sinh sản thiết yếu này bao gồm cung cấp các biện pháp tránh thai, chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh và các dịch vụ liên quan đến phá thai.
Đối với tất cả phụ nữ
Nếu tất cả các nhu cầu về tránh thai, chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh, và phá thai ở Việt Nam được đáp ứng thì các kết quả về sức khỏe sinh sản và tình dục sau đây của phụ nữ trong độ tuổi 15–49 và con của họ sẽ giảm đáng kể:
Mang thai ngoài ý muốn sẽ giảm 59%
Phá thai sẽ giảm 59%
Phá thai không an toàn sẽ giảm 59%
Tử vong mẹ sẽ giảm 55%
Tử vong sơ sinh sẽ giảm 66%
Đối với trẻ vị thành niên
Nếu tất cả các nhu cầu về tránh thai, chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh, và phá thai ở Việt Nam được đáp ứng thì các kết quả về sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục sau đây đối với trẻ em gái vị thành niên trong độ tuổi 15-19 sẽ giảm đáng kể:
Mang thai ngoài ý muốn sẽ giảm 59%
Phá thai sẽ giảm 59%
Phá thai không an toàn sẽ giảm 60%
Tuy nhiên, chuyên gia IPPF cũng cho rằng, để đạt được những kết quả này cần có những khoản đầu tư nhất định. Đơn cử như khoản đầu tư bổ sung bình quân đầu người là 2,13 đô la mỗi năm sẽ đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ tránh thai, bà mẹ và trẻ sơ sinh và liên quan đến phá thai ở Việt Nam. Tổng vốn đầu tư bổ sung là 210.000.000 USD mỗi năm sẽ đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ tránh thai, bà mẹ và trẻ sơ sinh và liên quan đến phá thai ở Việt Nam.
-> Bố mẹ đưa đón đi học hàng ngày nhưng… con vẫn dính bầu