Các giai đoạn của lao phổi và phương pháp điều trị bệnh hiệu quả

Các giai đoạn của lao phổi và phương pháp điều trị bệnh hiệu quả

Sơn Hà –  Thứ sáu, 03/03/2023 11:05 (GMT+7)

Theo dõi MTĐT trên

Lao phổi là một trong số các bệnh truyền nhiễm có mức độ nguy hiểm cao. Nguyên nhân dẫn đến lao phổi là do vi khuẩn lao gây ra, nó không những gây bệnh ở phổi mà còn có thể xâm nhập và tấn công các cơ quan khác trong cơ thể.

1. Tổng quan về bệnh lao phổi

Nguyên nhân chính gây ra bệnh lao phổi đó chính là vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis. Nó tồn tại trong dịch tiết của người bệnh nên có thể dễ dàng phát tán ra ngoài môi trường thông qua các hoạt động như ho, hắt hơi, nói chuyện, khạc nhổ,… Khi người xung quanh tiếp xúc những giọt bắn này, vi khuẩn lao sẽ đi vào cơ thể họ và gây bệnh tại phổi.

Ngoài phổi ra thì những cơ quan khác cũng có thể bị nhiễm lao. Men theo đường máu hay hệ bạch huyết, vi khuẩn lao có thể đến các phủ tạng khác trong cơ thể, gây ra lao màng não, lao hạch bạch huyết, lao màng bụng, lao màng phổi, lao xương khớp, lao ruột, lao hệ sinh dục – tiết niệu. Tuy nhiên phổ biến nhất chính là lao phổi (chiếm 80 – 85% trong số các trường hợp bị lao) và đây cũng là cơ quan dễ làm phát tán vi khuẩn lao ra ngoài nhất.

Sức sống của vi khuẩn lao rất mãnh liệt, nó có thể kháng lại axit và cồn cho dù nếu ở cùng nồng độ đó các loại vi khuẩn khác sẽ bị tiêu diệt nhưng đối với vi khuẩn lao thì không.

Sau đây là các dấu hiệu đặc trưng ở một bệnh nhân khi mắc lao phổi:

  • Mệt mỏi thường xuyên mọi lúc mọi nơi;

  • Đau ngực, đôi khi còn bị khó thở;

  • Ho lâu ngày không khỏi, có thể kéo dài trên 3 tuần theo các tính chất ho khan, ho ra máu, ho có đờm;

  • Chán ăn, sút cân, gầy gò;

  • Ban đêm ra nhiều mồ hôi trộm;

  • Thân nhiệt sốt nhẹ, tầm chiều thường có cảm giác ớn lạnh.

Ho ra máu là một trong những dấu hiệu cảnh báo bệnh lao phổi
Ho ra máu là một trong những dấu hiệu cảnh báo bệnh lao phổi

Nếu không được điều trị sớm và đúng cách, bệnh lao phổi có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng như sau:

  • Ho ra máu, tràn khí và tràn dịch màng phổi;

  • Ngay cả khi đã chữa khỏi lao phổi cũng có thể để lại các di chứng như giãn phế quản, suy hô hấp mạn tính, tràn khí màng phổi, u nấm phổi,…

2. Phân tích các giai đoạn của lao phổi

Khi vi khuẩn lao xâm nhập vào cơ thể người sẽ chưa bộc phát ngay thành bệnh mà sẽ trải qua các giai đoạn phát triển. Có thể sẽ là vài tháng, vài năm hay thậm chí là nhiều năm sau mới bộc lộ rõ các triệu chứng của bệnh. Sau đây là các giai đoạn của lao phổi:

Lao nguyên phát

Đây là giai đoạn đầu khi cơ thể bệnh nhân mới tiếp xúc với vi khuẩn lao. Lúc này kết quả xét nghiệm có thể chưa hiển thị dương tính, chụp X-quang phổi chưa có dấu hiệu bất thường và trên lâm sàng cũng không phát hiện bất kỳ triệu chứng cụ thể nào.

Lao tiềm ẩn

Giai đoạn tiếp theo được gọi là nhiễm trùng lao tiềm ẩn. Cơ thể người bệnh khi đã phát giác ra sự có mặt của vi khuẩn lao sẽ kích hoạt hệ thống miễn dịch chống lại tác nhân gây bệnh này. Do đó có nhiều trường hợp bị lao tiềm ẩn nhưng không biểu hiện triệu chứng trong thời gian đầu, thậm chí là trong suốt cuộc đời.

Khi bệnh nhân thực hiện xét nghiệm lao qua da hoặc xét nghiệm máu có thể cho kết quả dương tính. Khi chụp X-quang phổi cũng có thể phát hiện tổn thương do vi khuẩn để lại ở sẹo của vết thương cũ.

Từ nhiễm trùng lao tiềm ẩn có thể chuyển thành thể lao hoạt động bất kỳ lúc nào. Nguyên nhân thường là do khi sức đề kháng của người bệnh bị suy giảm sẽ mất dần khả năng bảo vệ cơ thể trước vi khuẩn lao. Và những đối tượng bệnh nhân dễ gặp phải tình trạng này đó là trẻ nhỏ, người già, người bị HIV/AIDS, người bị suy giảm miễn dịch hoặc đang dùng các thuốc ức chế miễn dịch.

Bởi vì nguy cơ lao tiềm ẩn có thể chuyển thành lao hoạt động là rất cao nên càng điều trị sớm thì sẽ càng gia tăng cơ hội chữa khỏi bệnh. Khi mới được chẩn đoán mắc lao tiềm ẩn, bác sĩ thường chỉ định cho bệnh nhân tiêm kháng sinh isoniazid liên tục trong khoảng 6 – 12 tháng. Cũng có những người được chỉ định điều trị theo đợt ngắn khoảng 3 tháng, dùng 1 hay kết hợp 2 loại kháng sinh tùy từng trường hợp.

Nhiều trường hợp nhiễm lao nhưng triệu chứng không điển hình hoặc xuất hiện muộn
Nhiều trường hợp nhiễm lao nhưng triệu chứng không điển hình hoặc xuất hiện muộn

Lao hoạt động

Khác với lao tiềm ẩn, thể lao hoạt động sẽ biểu hiện các triệu chứng rõ rệt bao gồm:

  • Ho có đờm hoặc bị ho ra máu. Thời gian ho kéo dài trên 3 tuần;

  • Cơ thể suy nhược, mệt mỏi, chán ăn, sút cân, gầy yếu;

  • Khó thở, ngực thường xuyên đau tức;

  • Trẻ em chậm tăng trưởng;

  • Ớn lạnh, sốt;

  • Hay đổ mồ hôi về ban đêm.

Khi bệnh nhân thực hiện xét nghiệm máu hoặc xét nghiệm qua da sẽ có kết quả âm tính hoặc dương tính, tuy nhiên khi kiểm tra phổi bằng chụp X-quang thì sẽ phát hiện các tổn thương tại phổi do nhiễm trùng lao.

Đối với thể lao hoạt động, bệnh nhân khi tiếp nhận điều trị có thể được kê đơn 3 loại kháng sinh trở lên dùng kết hợp, duy trì từ 6 – 9 tháng phụ thuộc vào diễn tiến bệnh. Các thuốc trị lao được dùng phổ biến hiện nay đó là: rifampin, ethambutol, isoniazid và pyrazinamide.

Sau khi đã điều trị bằng kháng sinh được một vài tuần, biểu hiện bệnh sẽ được cải thiện và giảm dần nguy cơ lây nhiễm cho người khác nhưng bệnh nhân vẫn phải tiếp tục hoàn thành phác đồ điều trị, không được tự ý bỏ thuốc để tránh tình trạng lao kháng thuốc và nguy cơ tái nhiễm trong tương lai.

3. Phương pháp điều trị lao phổi

Dùng thuốc chính là biện pháp điều trị thường dùng nhất và hầu hết trường hợp mắc bệnh lao nếu tuân thủ đúng phác đồ điều trị thì cơ hội chữa khỏi bệnh là rất cao. Thời gian chữa lao dài hay ngắn còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, cụ thể:

  • Độ tuổi;

  • Thể trạng của người bệnh;

  • Khả năng kháng thuốc;

  • Loại lao mắc phải (lao phổi hay lao ngoài phổi).

Phác đồ điều trị được xây dựng cho bệnh nhân mắc lao phổi lần đầu theo Chương trình Chống lao Quốc gia:

  • Giai đoạn tấn công (trị trong 2 tháng) dùng kết hợp 4 loại thuốc: rifampicine, pyrazinamide, isoniazide, ethambutol (hoặc streptomycine);

  • Giai đoạn duy trì (6 tháng tiếp theo) dùng 2 loại là ethambutol và isoniazide.

Khi dùng thuốc điều trị lao bệnh nhân cần lưu ý:

  • Dùng thuốc theo đúng phác đồ, đúng liều lượng, không bỏ thuốc hay tự ý ngưng sử dụng ngay cả khi triệu chứng đã thuyên giảm;

  • Nếu sau điều trị vi khuẩn lao vẫn sống sót có thể kháng thuốc và trở thành bệnh lao đa kháng thuốc (MDR). Khi đó việc chữa lao sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều.

Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị

Bạn cũng có thể thích