Bức tranh nông nghiệp tháng 10/2023: Chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tăng trưởng ổn định
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê (GSO), vụ lúa mùa năm 2023 cả nước gieo cấy được 1.544,5 nghìn ha, bằng 99,5% vụ mùa năm trước, trong đó: các địa phương phía Bắc đạt 1.005,8 nghìn ha, bằng 98,3%; các địa phương phía Nam đạt 538,7 nghìn ha, bằng 101,8%.
Tính đến trung tuần tháng 10, cả nước thu hoạch được 1.028,3 nghìn ha lúa mùa, chiếm 66,6% diện tích gieo cấy và bằng 106,9% cùng kỳ năm trước. Kết quả sản xuất vụ mùa năm nay được dự báo đạt mức khá do người dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăm sóc lúa đồng thời sử dụng giống lúa mới có năng suất và chất lượng cao.
Cùng với chăm sóc và thu hoạch lúa mùa, các địa phương trên cả nước hoàn thành sản xuất lúa hè thu với diện tích đạt 1.912,8 nghìn ha, giảm 1,9 nghìn ha so với vụ hè thu năm 2022. Diện tích gieo cấy vụ hè thu năm nay giảm do người dân giảm diện tích xuống giống ở phần đất lúa kém hiệu quả, năng suất thấp sang trồng cây ăn quả cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa hè thu đạt 57,6 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha so với vụ hè thu năm trước; sản lượng đạt 11 triệu tấn, tăng 173 nghìn tấn.
Đến giữa tháng 10, vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy được 692,9 nghìn ha lúa thu đông, bằng 106,9% cùng kỳ năm trước. Đến nay, toàn vùng đã thu hoạch 247 nghìn ha, chiếm 35,6% diện tích gieo cấy và bằng 88,0% cùng kỳ năm trước. Diện tích lúa thu đông còn lại chủ yếu ở giai đoạn chắc xanh đến chín, sinh trưởng và phát triển khá tốt.
Đối với cây hàng năm, theo Tổng cục thống kê, do thời tiết thuận lợi, các địa phương phía Bắc đang tranh thủ gieo trồng rau màu vụ đông nên tiến độ gieo trồng vụ đông năm nay nhanh hơn so với cùng kỳ năm trước.
Về chăn nuôi, theo Tổng cục thống kê, chăn nuôi gia súc, gia cầm trong tháng phát triển ổn định, dịch bệnh cơ bản được kiểm soát. Hiện tại đang là thời điểm người chăn nuôi tập trung tái đàn, tăng đàn, chăm sóc đàn gia súc, gia cầm để cung ứng nguồn thịt ra thị trường những tháng cuối năm và các kỳ lễ tết sắp tới. Tuy nhiên, chăn nuôi lợn đang gặp khó khăn do giá thị lợn hơi thấp trong khi chi phí đầu vào cao, dịch tả lợn châu Phi quay trở lại ở một số địa phương.
Để ổn định thị trường sản xuất và tiêu thụ thịt trong nước, theo Tổng cục thống kê, cần thực hiện quyết liệt đồng thời nhiều biện pháp, chính sách chống đầu cơ, thao túng giá, đảm bảo quyền lợi của người chăn nuôi và người tiêu dùng; phòng, chống dịch bệnh, tổ chức hiệu quả việc tiêm vắc – xin; giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời các ổ dịch mới phát sinh; xử lý nghiêm các trường hợp mua bán, vận chuyển lợn trái phép, không rõ nguồn gốc làm gia tăng nguy cơ xâm nhiễm, lây lan các loại dịch bệnh nguy hiểm trên đàn lợn trong nước.
Tính đến ngày 23/10/2023, dịch lợn tai xanh còn ở Quảng Bình; dịch cúm gia cầm còn ở Bình Dương, Long An; dịch lở mồm long móng còn ở Cao Bằng, Đồng Nai; dịch viêm da nổi cục còn ở Quảng Nam, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Tiền Giang và dịch tả lợn châu Phi còn ở 24 địa phương chưa qua 21 ngày.
Về lâm nghiệp, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tháng 10/2023 ước đạt 31,3 nghìn ha, giảm 5,6% so với cùng kỳ năm trước do năm nay thời tiết nắng nóng rồi chuyển nhanh sang mưa lũ gây sạt lở đất làm ảnh hưởng đến tiến độ trồng rừng mới. Một số địa phương có tiến độ trồng đạt thấp so với cùng kỳ năm trước như: Lào Cai bằng 48,1%, Lai Châu bằng 47%, Sơn La bằng 41,9%, Quảng Trị bằng 56,7%, Gia Lai bằng 56,6%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 13,9 triệu cây, tăng 8,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 2.000,8 nghìn m3, tăng 3,3%. Tính chung 10 tháng năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 229,3 nghìn ha, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 83,7 triệu cây, tăng 4,7%; sản lượng gỗ khai thác đạt 16,2 triệu m3, tăng 3,2%.
Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng 10 là 68,8 ha, giảm 22,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị chặt, phá là 61 ha, giảm 30,9%; diện tích rừng bị cháy là 7,8 ha, gấp 16,2 lần. Tính chung 10 tháng năm 2023, cả nước có 1.662,8 ha rừng bị thiệt hại, tăng 68,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị chặt, phá là 983,2 ha, tăng 2,1%; diện tích rừng bị cháy là 679,6 ha, gấp 25,7 lần do năm nay nắng nóng kéo dài.
Về thủy sản, sản lượng thủy sản tháng 10 ước đạt 848,5 nghìn tấn, tăng 3,0% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: cá đạt 596,9 nghìn tấn, tăng 2,3%; tôm đạt 134,1 nghìn tấn, tăng 6,2%; thủy sản khác đạt 117,5 nghìn tấn, tăng 3,3%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng 10 ước đạt 544,4 nghìn tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá đạt 365,2 nghìn tấn, tăng 3,5%; tôm đạt 120,6 nghìn tấn, tăng 6,8%.
Sản lượng thu hoạch cá tra trong tháng 10 tăng so với cùng kỳ năm trước do nhu cầu xuất khẩu và giá cá tra nguyên liệu tăng. Sản lượng cá tra trong tháng ước đạt 171,5 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước.
Giá tôm nuôi cao và duy trì ở mức ổn định cùng với việc phát triển các mô hình nuôi tôm thâm canh công nghệ cao, nuôi tôm siêu thâm canh giúp tăng sản lượng tôm nuôi. Sản lượng tôm thẻ chân trắng tháng 10 ước đạt 89,2 nghìn tấn, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm sú đạt 23 nghìn tấn, tăng 0,6%.
Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng ước đạt 304,1 nghìn tấn, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cá đạt 231,7 nghìn tấn, tăng 0,4%; tôm đạt 13,5 nghìn tấn, tăng 0,7%. Sản lượng thủy sản khai thác biển ước đạt 283,6 nghìn tấn, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 10 tháng năm 2023, sản lượng thủy sản ước đạt 7.645,2 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: cá đạt 5.455,9 nghìn tấn, tăng 1,9%; tôm đạt 1.091,4 nghìn tấn, tăng 4,4%; thủy sản khác đạt 1.097,9 nghìn tấn, tăng 1,7%.
Nguồn: Báo doanhnghiepthuonghieu