Bộ Công Thương nói gì về chất Etylen Oxide có trong thực phẩm ăn liền?

Đặc tính của hợp chất Etylen oxit

Vụ Khoa học và Công nghệ cho biết, Etylen oxit hay còn gọi là oxiran, là một hợp chất hữu cơ thường ở dạng khí không màu và được sản xuất với quy mô lớn, ứng dụng ở nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau. EO không phải phụ gia thực phẩm hay chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, nhưng có thể được sử dụng với mục đích kiểm soát côn trùng, vi sinh vật trong sản phẩm thực phẩm khô (đặc biệt cho gia vị và các loại thảo mộc như ớt bột, tiêu và quế v.v… nhằm diệt khuẩn Salmonella).

Theo hướng dẫn của FAO, khí EO có thể dùng để khử trùng các nhóm thực phẩm với liều lượng như sau: Hạt (hạt có vỏ): 560 (640) g/m³ trong ít nhất 3h ở 20°C; Chà là và nho khô: 640 g/m³ trong ít nhất 3h ở 20°C; Sữa bột: 720 g/m³ trong ít nhất 3h ở 20°C; Ngũ cốc, thức ăn chăn nuôi đã xay: 800 g/m³ trong ít nhất 6 giờ ở 25°C.

Ở điều kiện bình thường, EO sẽ chuyển thành dạng khí tác dụng đến côn trùng, vi sinh vật qua cơ chế gây độc hô hấp nên được sử dụng với mục đích khử trùng trong sản xuất thực phẩm. Tại châu Âu, hợp chất này được xếp vào nhóm 1B về khả năng gây ung thư, gây đột biến, độc tính sinh sản và trong nhóm 3 về độc tính cấp.

Mặc dù EU đã cấm sử dụng trong nông nghiệp và khử trùng trong quá trình sản xuất thực phẩm, nhưng vẫn phát hiện ra dư lượng EO trong thực phẩm ngay cả khi được sản xuất ở những nước trong khối EU. Hiện nay, các chức trách của EU đang tiếp tục thảo luận để tìm ra nguyên nhân của việc xuất hiện và tồn dư hợp chất này trong thực phẩm nhập khẩu từ nhiều nước trên thế giới cũng như được sản xuất ngay tại một số quốc gia trong khối EU.

Vụ Khoa học và Công nghệ

Etylen Oxide có trong thực phẩm mì ăn liền.

Quy định về dư lượng Etylen oxit trong thực phẩm trên thế giới

Theo Vụ Khoa học và Công nghệ, hiện nay nhiều quốc gia chưa có quy định về việc sử dụng EO trong nông nghiệp/thực phẩm hay dư lượng của chất này trong thực phẩm. Các tổ chức quốc tế về an toàn thực phẩm cũng chưa ban hành quy định về giới hạn dư lượng EO trong thực phẩm. Một số ít quốc gia và khu vực đã đưa ra quy định nhưng với sự chênh lệch rất lớn.

Với EU, từ năm 1991 EU đã cấm việc sử dụng các sản phẩm có thành phần EO trong khử trùng thực phẩm hay khu vực lưu trữ thực phẩm, tuy nhiên vẫn ghi nhận việc sản phẩm nhập khẩu từ các quốc gia khác có thể có dư lượng chất này. Từ năm 2005, EU đưa ra định nghĩa tại Regulation (EC) 396/2005 về dư lượng chung cho hai thành phần: “Tổng của etylen oxit và 2-cloroetanol được biểu thị dưới dạng Etylen oxit”.

Theo quy định năm 2015, các ngưỡng dư lượng EO cho phép trong thực phẩm của EU hiện nay là: 0,1 mg/kg đối với chè, ca cao, cà phê hạt, gia vị, các loại củ; 0,05 mg/kg với các loại hạt có dầu; 0,02 mg/kg đối với trái cây, rau, cây đường, nấm và các loại khác; 0,02 mg/kg đối với ngũ cốc và các sản phẩm có nguồn gốc động vật; 0,05 mg/kg đối với các sản phẩm trồng trọt.

Tại thị trường Hoa Kỳ và Canada, hai quốc gia này cho phép sử dụng EO trong khử trùng thảo mộc và rau củ khô. Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ, khoảng hơn 30% sản phẩm gia vị và thảo mộc của nước này được khử trùng bằng EO. Theo nghiên cứu của Canada trên rau củ khô và vừng hạt, sau khi xử lý sản phẩm với 300 mg/L khí EO trong 6 tiếng và nghỉ 24 tiếng, hàm lượng EO trong sản phẩm là từ không tìm thấy đến 0,255 mg/kg.

Đối với Úc và New Zealand, trước năm 2003, khu vực này cho phép sử dụng EO trong xử lý nông sản và quy định ngưỡng giới hạn dư lượng là 20 mg/kg. Từ năm 2003, EO đã bị loại bỏ khỏi danh sách chất được sử dụng. Tuy có ghi nhận nguy cơ EO tồn tại trong sản phẩm thực phẩm nhập khẩu, Úc và New Zealand hiện không có quy định về ngưỡng giới hạn dư lượng đối với EO.

Tại Hàn Quốc, trong tháng 7 năm 2021, một số sản phẩm mỳ ăn liền do Hàn Quốc sản xuất bị EU cảnh báo về dư lượng EO. Qua quá trình kiểm tra, Bộ An toàn Thực phẩm và Dược phẩm Hàn Quốc cho biết doanh nghiệp không sử dụng EO trong sản xuất nhưng một số sản phẩm có phát hiện thành phần 2-chloroethanol với các dư lượng EO là: 0,11 mg/kg trong hành lá khô của mì ăn liền thủy sản Nongshim xuất khẩu; 2,2 mg/kg trong gói rau bán ở thị trường nội địa; 12,1 mg/kg trong gói gia vị.

Từ vụ việc này, Hàn Quốc đã ban hành quy định tạm thời về giới hạn dư lượng cho phép đối với hợp chất 2-chloroethanol là dưới 30 mg/kg đối với thực phẩm thông thường, dưới 10 mg/kg đối với thực phẩm dành cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

Khuyến nghị đối với doanh nghiệp sản xuất Việt Nam

Thời gian qua, đã có một số sản phẩm của Việt Nam bị cảnh báo về dư lượng EO khi xuất khẩu vào thị trường châu Âu. Đặc biệt, đây là những loại sản phẩm có nhiều cấu phần như mì khô, gói gia vị, gói rau, gói dầu ớt, v.v. Những sản phẩm này có thể có chuỗi cung ứng gồm nhiều nhánh nhỏ dành riêng cho các cấu phần khác nhau trước khi được đóng gói trong sản phẩm cuối cùng.

Có thể thấy việc kiểm soát chất lượng trong toàn chuỗi cung ứng cần được coi là mối quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp sản xuất thực phẩm. Song song với việc thường xuyên rà soát, đánh giá quy trình sản xuất, máy móc thiết bị, vệ sinh nhà xưởng về mối nguy gây mất an toàn thực phẩm, doanh nghiệp cần kiểm tra định kỳ các sản phẩm và nguyên liệu, đặc biệt là các cấu phần thuê mua gia công/ sản xuất để đánh giá nguy cơ, kiểm soát nhằm giảm thiểu mức độ rủi ro; đồng thời làm việc với các nhà cung cấp để đảm bảo điều kiện sản xuất, bảo quản và vận chuyển nguyên vật liệu và bao bì không phát sinh mối nguy.

Hiện nay, Việt Nam chưa ban hành quy định cho phép, cấm sử dụng EO trong sản xuất nông nghiệp hay giới hạn dư lượng EO trong thực phẩm. Trong khi đó, việc quy định các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với từng loại thực phẩm mà mỗi quốc gia, khu vực đơn phương đưa ra khác nhau và phụ thuộc rất lớn vào cán cân thương mại giữa các quốc gia/khu vực hoặc chính sách xuất nhập khẩu mỗi nước, điều kiện kỹ thuật, phương thức quản lý, thói quen tiêu dùng, v.v…

Vì vậy trong trường hợp này, mức giới hạn dư lượng EO cho phép đối với cùng một mặt hàng thực phẩm có thể đáp ứng quy định của quốc gia, khu vực này nhưng lại vượt ngưỡng cho phép của quốc gia, khu vực khác. Đây là một yếu tố các doanh nghiệp cần nghiên cứu, thường xuyên cập nhật thông tin để kiểm soát tiêu chuẩn sản phẩm do mình sản sản xuất trước khi xuất khẩu.

Nam Dương

Nguồn: Tạp chí điện tử chất lượng Việt Nam

Bạn cũng có thể thích