Bến Tre đảm bảo cung ứng cát cho các công trình, dự án trọng điểm
(Xây dựng) – Hiện nay, nguồn cát phục vụ các công trình giao thông tại tỉnh Bến Tre đang khan hiếm. Việc tháo gỡ những vướng mắc, đáp ứng nguồn cung vật liệu là giải pháp quan trọng để bảo đảm các dự án trọng điểm trên địa bàn tỉnh được triển khai đúng tiến độ. Việc cung ứng nguồn vật liệu san lấp khi chưa có vật liệu thay thế cho các công trình, dự án trọng điểm được tỉnh ưu tiên theo Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Hiện nay, nguồn cát phục vụ các công trình giao thông tại tỉnh Bến Tre đang khan hiếm và gặp nhiều khó khăn về thủ tục cấp phép khai thác. |
Triển khai nhiều dự án trọng điểm
Từ nay đến năm 2025, tỉnh Bến Tre triển khai nhiều dự án giao thông trọng điểm, theo đó nhu cầu về vật liệu san lấp tăng cao. Cụ thể, dự án cầu Ba Lai 8 trên tuyến đường bộ ven biển do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông tỉnh Bến Tre làm chủ đầu tư, dự kiến khởi công vào quý II/2024 và sẽ hoàn thành vào quý II/2026.
Ngoài ra, tỉnh Bến Tre đang dự kiến triển khai xây dựng cầu Đình Khao kết nối với tỉnh Vĩnh Long, nhà máy sản xuất hydro xanh, xây dựng công trình cống âu thuyền An Hóa ngăn nước mặn từ sông Tiền vào sông Ba Lai…
Theo tính toán, tổng khối lượng vật liệu cát đắp nền phục vụ dự án xây dựng cầu Ba Lai 8 cần khoảng 1,68 triệu m3 (bao gồm đắp nền đường, đắp bù lún và đắp gia tải). Bên cạnh đó, dự án cầu Rạch Miễu 2 nối tỉnh Tiền Giang và tỉnh Bến Tre đang thi công cũng thiếu khoảng 300.000m3 cát, các nhà thầu vẫn phải “loay hoay” tìm nguồn cát phục vụ thi công công trình này. Việc triển khai đồng bộ các dự án trọng điểm đòi hỏi nguồn cát san lấp lớn, nếu địa phương không có giải pháp, các dự án giao thông khởi công xong phải thi công cầm chừng, không thể triển khai đảm bảo theo tiến độ.
Tiến độ thăm dò, khai thác
Căn cứ các dự án, công trình theo Nghị quyết của tỉnh, nhu cầu sử dụng cát trên địa bàn tỉnh bình quân cần khoảng 4 – 5 triệu m3/năm. Trong đó, có phục vụ cho các dự án đầu tư xây dựng Khu công nghiệp Phú Thuận, Cụm công nghiệp Long Phước, các công trình giao thông. Đồng thời, Bến Tre được giao cung ứng nguồn vật liệu cát cho các dự án giao thông trọng điểm khu vực phía Nam, tương ứng trên 7 triệu m3 cát, tại Thông báo số 283/TB-VPCP ngày 26/6/2024 của Văn phòng Chính phủ.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh chỉ có 1 mỏ khoáng sản cát là Mỏ cát Cẩm Sơn (xã Cẩm Sơn, huyện Mỏ Cày Nam) san lấp hoạt động khai thác được cấp phép khai thác năm 2020 qua hình thức đấu giá quyền khai thác khoáng sản với công suất khai thác 180 ngàn m3/năm, trữ lượng khai thác 489,3 ngàn m3. Thời hạn giấy phép được gia hạn 2 năm (đến tháng 10/2024). Chất lượng cát không đáp ứng yêu cầu cho các dự án giao thông trọng điểm.
Ngày 17/11/2023, Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ngay sau đó, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch đấu giá quyền khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường năm 2024, gồm: 6 khu vực mỏ, trong đó tổng trữ lượng 3 mỏ đã có kết quả thăm dò 4,2 triệu m3; còn 3 mỏ trên sông Ba Lai chưa có kết quả thăm dò, trữ lượng khoanh định thực tế giảm. Do đó, tổng trữ lượng 6 mỏ dự kiến khai thác hiện nay khoảng 10 triệu m3.
Theo báo cáo của UBND tỉnh tại buổi làm việc với Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vào cuối tháng 6/2024, dự kiến tháng 8/2024, tỉnh sẽ tổ chức đấu giá các mỏ cát. Quý IV/2024 đưa vào khai thác 3 mỏ Quới Sơn, An Đức – An Hòa Tây, An Hiệp – An Ngãi Tây. Quý I/2025 đưa vào khai thác 3 mỏ trên sông Ba Lai.
Tỉnh cũng đã tổ chức lấy ý kiến người dân nơi có khu vực khoáng sản đưa ra đấu giá. Kết quả, đa số nhân dân đồng tình chủ trương nhưng có ý kiến lo ngại sạt lở trong quá trình khai thác cát, đề nghị cần có giải pháp đảm bảo an toàn. Riêng khu vực mỏ An Hòa Tây và An Đức, tỷ lệ dân đồng tình rất thấp (13%). Hệ thống chính trị sẽ tập trung tuyên truyền, vận động, thuyết phục để tạo được sự đồng thuận cao của người dân tại 2 xã này.
Đối với 9 mỏ quy hoạch khai thác giai đoạn 2026 – 2030 có trữ lượng là 38,3 triệu m3 (cụ thể, trên sông Tiền: 10,14 triệu m3; sông Hàm Luông: 15,03 triệu m3; sông Cổ Chiên: 12,8 triệu m3).
Bên cạnh đó, nạo vét luồng sông Cửa Đại với trữ lượng là 10,9 triệu m3, gồm: Cát mịn tận thu 6,5 triệu m3; cát xen kẹp, bùn sét tận thu 4,1 triệu m3; bùn không tận thu 225 ngàn m3; rác hữu cơ 5,4 ngàn m3.
Nhiều dự án giao thông trọng điểm qua Bến Tre đang thiếu nguồn vật liệu, ảnh hưởng đến tiến độ của dự án. |
Đề xuất cơ chế đặc thù
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Cảnh, mặc dù nguồn cát Bến Tre khá dồi dào nhưng gặp rất nhiều khó khăn trong áp dụng cơ chế đặc thù khi cấp giấy phép khai thác khoáng sản. Căn cứ Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 16/6/2021 của Chính phủ về việc áp dụng cơ chế đặc thù trong cấp phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường cung cấp cho Dự án đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông, giai đoạn 2017 – 2020 (hiện đã khởi công và sắp khởi công). Tỉnh không có các tuyến đường cao tốc này đi qua nên tỉnh không được áp dụng cơ chế đặc thù về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường.
Theo Nghị quyết số 106/2023/QH15 ngày 28/11/2023 của Quốc hội thí điểm một số chính sách đặc thù về đầu tư xây dựng công trình đường bộ, Bến Tre cũng không nằm trong hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng phục vụ các dự án được nêu trong Nghị quyết này để áp dụng cơ chế đặc thù khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường. Bên cạnh đó, theo Nghị định số 57/2024/NĐ-CP ngày 20/5/2024 của Chính phủ, các dự án nạo vét phải lập, phê duyệt lại tổng mức đầu tư của dự án trên cơ sở xác định lại giá trị sản phẩm tận thu theo Điều 40 của Nghị định này và hướng dẫn của các Bộ, ngành Trung ương.
Để tháo gỡ khó khăn trong việc khai thác cát phục vụ các công trình giao thông trọng điểm trong khu vực tỉnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Cảnh kiến nghị các Bộ, ngành Trung ương hướng dẫn để tỉnh được áp dụng cơ chế đặc thù theo tinh thần Nghị quyết số 106/2023/QH15 ngày 28/11/2023 của Quốc hội. Sớm ban hành tiêu chí đánh giá doanh nghiệp lập báo cáo nghiên cứu khả thi; hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đơn giá, định mức kỹ thuật và hướng dẫn kỹ thuật đánh giá, phân tích thành phần, hàm lượng, khối lượng khoáng sản đối với các dự án, công trình nạo vét vùng nước cảng biển vùng nước đường thủy nội địa.
Theo Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại buổi làm việc với các Bộ, địa phương, cơ quan có liên quan về xử lý khó khăn, vướng mắc cho dự án giao thông trọng điểm khu vực phía Nam (tại Thông báo số 283/TB-VPCP ngày 26/6/2024), Bến Tre được giao nhiệm vụ cung ứng khoảng 7,37 triệu m3 cho các dự án, gồm: Dự án Cần Thơ – Cà Mau khoảng 2 triệu m3. Dự án thành phần 3 thuộc Dự án cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng khoảng 3,37 triệu m3. Dự án đường Vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 2 triệu m3. Đồng thời, tỉnh tiếp tục hỗ trợ đối với các dự án đang có khó khăn về nguồn hoặc công suất khai thác theo tiến độ do các nguyên nhân khách quan và tiếp tục cân đối để cung ứng đủ nhu cầu vật liệu đắp nền đường cho các dự án theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Hiện nay, Bến Tre đã xây dựng phương án cung ứng nguồn vật liệu. Cụ thể, đối với 2 triệu m3 cát giao cho Dự án đường Vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng theo cơ chế thông thường. Sau khi chọn được đơn vị trúng đấu giá, tỉnh sẽ trao đổi ưu tiên cung cấp cát phục vụ cho công trình này.
Cũng theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Cảnh, trường hợp Bến Tre được áp dụng cơ chế đặc thù theo Nghị quyết số 106/2023/QH15 của Quốc hội (nằm trong hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng) và để cung ứng 5,37 triệu m3 (cho dự án đường cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng 3,37 triệu m3 và Dự án cao tốc Cần Thơ – Cà Mau 2 triệu m3) như đề xuất của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải, UBND tỉnh đề xuất các khu vực tiềm năng được áp dụng cơ chế đặc thù theo phương án: Khai thác một số mỏ được phân kỳ khai thác giai đoạn 2026 – 2030 trong Quy hoạch tỉnh. UBND tỉnh trình Chính phủ đưa một số mỏ phân kỳ khai thác giai đoạn 2026 – 2030 sang giai đoạn 2021 – 2025 trong Quy hoạch tỉnh.
Theo phương án này, Bến Tre sẽ có đủ lượng cát phục vụ các dự án giao thông trọng điểm theo đề nghị của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải. Đồng thời, tỉnh có đủ lượng cát để phục vụ các công trình trọng điểm của tỉnh.
Nguồn: Báo xây dựng