Báo động nước ngầm nhiễm ‘hóa chất vĩnh cửu’ TFA không có cách nào để loại bỏ

 

Theo kết quả phân tích, khoảng 79% mẫu nước phân tích có mức độ dư thừa hóa chất TFA (Axit trifluoroacetic là một loại chất per và polyfluoroalkyl (PFAS), một nhóm hóa chất nhân tạo được sử dụng rộng rãi trong các sản phẩm tiêu dùng và không bị phân hủy trong hàng nghìn năm có liên quan đến tác động tiêu cực đến sức khỏe con người) cao hơn giới hạn quy định.

Các mẫu do Trung tâm Công nghệ nước ở thành phố Karlsruhe của Đức phân tích cũng đều chứa TFA, với nồng độ dao động từ 370 nanogram/lít đến 3.300 nanogram/lít. Những mức độ ô nhiễm này là “đáng báo động và cần có hành động quyết đoán”.

TFA là chất có khả năng hòa tan cao trong nước và tránh được các bộ lọc tự nhiên giúp loại bỏ các chất ô nhiễm. Chúng có thể ngấm vào mạch nước ngầm và tồn tại ở đó trong nhiều thế kỷ. Quyết định xếp TFA “không liên quan” theo các quy định về thuốc trừ sâu của EU là điều “đáng tiếc” vì “hồ sơ độc tính của hóa chất này vẫn để lại nhiều câu hỏi chưa có lời giải”.

Trước đó, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra dị tật bẩm sinh ở thỏ sau khi phơi nhiễm với TFA. Phát hiện này đã thúc đẩy PAN Europe kêu gọi cấm thuốc trừ sâu nhằm ngăn chặn phát tán hóa chất độc hại như TFA.

Các nghiên cứu khác từ khắp nơi trên thế giới cũng đang báo cáo sự gia tăng mạnh mẽ về TFA. Một nguồn chính là khí F, được đưa vào để thay thế CFC làm suy giảm tầng ozone trong điện lạnh, điều hòa không khí, bình xịt khí dung và bơm nhiệt. Thuốc trừ sâu, thuốc nhuộm và dược phẩm cũng có thể là nguồn.

David Behringer, nhà tư vấn môi trường đã nghiên cứu TFA dưới mưa cho chính phủ Đức, cho biết không có nghiên cứu nào mà nồng độ TFA không tăng. Nếu đang uống nước đồng nghĩa với việc đang uống rất nhiều TFA, dù ở đâu trên thế giới… Trung Quốc có TFA trong nước mặt tăng gấp 17 lần trong một thập kỷ, Mỹ tăng gấp 6 lần trong 23 năm. TFA trong nước mưa ở Đức được phát hiện đã tăng gấp 5 lần trong hai thập kỷ.

Hans Peter Arp từ Viện Địa kỹ thuật Na Uy và Đại học Khoa học và Công nghệ Na Uy cho biết: “Tôi lo lắng về điều này vì trong lịch sử gần đây chúng tôi chưa bao giờ thấy một loại hóa chất nào được tích tụ trên nhiều phương tiện truyền thông với tốc độ cao như vậy. Nó đang tích tụ trong nước máy, thực phẩm chúng ta đang ăn, thực vật, cây cối, biển và tất cả trong vài thập kỷ qua.”

Ông nói thêm: “Tất cả chúng ta đều đang trải qua tình trạng nồng độ TFA tăng cao trong máu. Các thế hệ tương lai sẽ có nồng độ ngày càng tăng trong máu cho đến khi một số hành động toàn cầu được thực hiện. Sự tích tụ trong môi trường về cơ bản là không thể đảo ngược được và tôi e rằng tác động đối với con người và môi trường sẽ không được các nhà khoa học nhận ra cho đến khi quá muộn.”

Đan Mạch và Đức đã đặt ra giới hạn cho TFA trong nước uống nhưng Vương quốc Anh thì chưa. Các công ty nước của Anh đã được yêu cầu đánh giá nguồn nước uống của họ để tìm 47 loại PFAS nhưng TFA không có trong danh sách.

Cơ quan Quản lý An toàn và Sức khỏe của Anh đã xác định TFA là “chất đáng lo ngại vì có dấu hiệu cho thấy nó có thể gây độc tính cho quá trình phát triển” và Cơ quan Môi trường cho biết họ đang lên kế hoạch cho một chương trình mục tiêu để kiểm tra TFA trong nước mặt và nước ngầm.

Ủy ban Kỹ thuật Fluorocarbons Châu Âu đại diện cho ngành công nghiệp khí F và hóa chất, cho biết TFA xuất hiện tự nhiên với số lượng lớn trong môi trường. TFA  rất khó loại bỏ khỏi nước. Không có cách nào để loại bỏ TFA. 

Liên quan tới nước ngầm, theo thông tin từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, trên toàn quốc hiện có khoảng 4.500 hệ thống cấp nước, phục vụ cả đô thị và nông thôn với tổng công suất cấp nước thiết kế là khoảng 10,9 triệu m3/ngày đêm. Trong tổng số này, nước mặt chiếm phần lớn, đạt 87%, trong khi nước ngầm chiếm 13%.

Khu vực đô thị đóng góp khoảng 829 nhà máy nước, với tổng công suất xấp xỉ 10,6 triệu m3/ngày đêm. Trong số này, 70% sử dụng nguồn nước từ các nguồn mặt, trong khi 30% còn lại đến từ nước ngầm. Có thể thấy, nguồn nước mặt vẫn chiếm ưu thế nhưng nước ngầm cũng đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống cung cấp nước. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nước ngầm ở Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm:

Khai thác quá mức: Tình trạng khai thác nước ngầm quá mức đang diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các khu vực đô thị, công nghiệp. Điều này dẫn đến nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngầm, đồng thời gây ra các hiện tượng sụt lún đất, ô nhiễm nguồn nước.

Ô nhiễm: Nước ngầm bị ô nhiễm bởi các chất thải từ hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người. Các chất ô nhiễm này có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng, thậm chí gây tử vong.

Thiếu quy hoạch: Việc khai thác và sử dụng nguồn nước ngầm ở Việt Nam hiện nay còn thiếu quy hoạch, dẫn đến tình trạng khai thác tràn lan, thiếu kiểm soát. Điều này gây ảnh hưởng đến chất lượng và nguồn cung cấp nước ngầm.

Theo nhiều khảo sát khác nhau cho thấy, nguồn nước ngầm ở Việt Nam đang bị ô nhiễm khi nồng độ kim loại nặng như mangan, thủy ngân, sắt…, nồng độ asen trong nước ngầm đang vượt mức cho phép. Ở các khu vực đô thị, các khu công nghiệp, các thành phố lớn, những chỉ số này có thể vượt gấp đôi mức cho phép. Theo báo cáo của Cục Y tế Dự phòng – Bộ Y tế, hiện nay tại Việt Nam số người có nguy cơ mắc bệnh do tiếp xúc với asen đã lên tới 17 triệu người.

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 09:2023/BTNMT về chất lượng nước dưới đất

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 09:2023/BTNMT do Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định và được ban hành theo Thông tư số /2023/TT-BTNMT ngày 13 tháng 03 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Quy chuẩn này quy định giá trị giới hạn các thông số chất lượng nước dưới đất. Quy chuẩn này áp dụng để đánh giá và giám sát chất lượng nguồn nước dưới đất, làm căn cứ để định hướng cho các mục đích sử dụng nước khác nhau.

Theo đó giá trị giới hạn của các thông số chất lượng nước dưới đất được quy định cụ thể: pH từ 5,8-8,5; Tổng Coliform giá trị giới hạn là 3; Arsenic (As) là 0,05ml; Thuỷ ngân là 0,001ml; chì 0,01ml….

An Dương (T/h)

Nguồn: Tạp chí điện tử chất lượng Việt Nam

Bạn cũng có thể thích