Phát triển KT-XH vùng Đông Nam Bộ: Giải quyết điểm nghẽn để bứt phá
Các đại biểu phân tích những khó khăn, vướng mắc, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tạo bứt phá trong liên kết phát triển kinh tế các tỉnh, thành vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng Đông Nam Bộ.
Cảng Gemalink thuộc cụm cảng biển số 5 có tổng diện tích 72ha, là cảng nước sâu duy nhất khu vực Cái Mép-Thị Vải có bến chuyên dụng cho tàu feeder kết nối khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long. (Ảnh: Huỳnh Ngọc Sơn/TTXVN) |
Dự kiến, ngày 9/7, Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Kết luận số 27-KL/TW ngày 2/8/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW sẽ được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW, Kết luận số 27-KL/TW có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đánh giá những kết quả đạt được, phát hiện những điểm nghẽn, tận dụng thời cơ để khu vực này trỗi dậy, bứt phá, tạo động lực phát triển trong thời gian tới.
Duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tạo chuyển biến rõ rệt về chất
Vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang; là vùng kinh tế trọng yếu, đóng góp đặc biệt quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát huy các lợi thế về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng và các mối quan hệ đối ngoại, vùng đảm nhiệm chức năng đầu mối giao lưu với khu vực và thế giới, đi đầu trong hội nhập quốc tế của cả nước.
Bên cạnh đó, đây còn là trung tâm giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trung tâm nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học-công nghệ hàng đầu cả nước.
Nhận thức rõ vai trò, vị trí của vùng, Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị khóa IX đã được ban hành nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Tại phiên họp ngày 5/7/2012, sau khi xem xét báo cáo kết quả tổng kết Nghị quyết số 53-NQ/TW, Bộ Chính trị đã thảo luận và kết luận: Trong 5 năm (2006-2010) triển khai, vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã đạt được những bước phát triển quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nhiều mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế-xã hội vùng trong Nghị quyết đề ra đã hoàn thành đạt và vượt. Những kết quả đạt được là to lớn và rất quan trọng, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng.
Để tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ của Nghị quyết số 53-NQ/TW, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020, Kết luận số 27-KL/TW ngày 2/8/2012 đã được ban hành; trong đó đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2020.
Theo đó, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tạo chuyển biến rõ rệt về chất, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả các ngành kinh tế, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đóng góp hiệu quả vào quá trình tái cấu trúc nền kinh tế của cả nước.
Chủ động khai thác cơ hội, phát huy tốt đa lợi thế và hạn chế các mặt bất lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững kinh tế, xã hội, môi trường và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Phấn đấu trong thời kỳ 2011-2020, tốc độ tăng trưởng GDP vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đạt bình quân khoảng 9-10%/năm.
Dự án đường 319 nối dài và nút giao (thuộc huyện Nhơn Trạch và Long Thành, tỉnh Đồng Nai) với đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh-Long Thành-Dầu Giây chính thức thông xe tháng 10/2021. (Ảnh: Công Phong/TTXVN) |
Đến năm 2020, tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp chiếm khoảng 96% trong cơ cấu kinh tế, GDP bình quân đầu người của vùng gấp khoảng 2 lần mức bình quân chung cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu của vùng tăng trưởng bình quân 10-11%/năm, thu ngân sách đóng góp 55-60% thu ngân sách của cả nước thời kỳ 2011-2020.
Tại Kết luận số 27-KL/TW, Bộ Chính trị yêu cầu các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng và đảng ủy trực thuộc Trung ương cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt các nhiệm vụ về phát triển kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh…
Trong đó, một số nhiệm vụ cụ thể cần tập trung thực hiện là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hiệu quả; phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ cao, thu hút lao động có trình độ khoa học kỹ thuật, tay nghề chuyên môn cao…; tăng cường liên kết vùng, xây dựng không gian kinh tế thống nhất nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi tỉnh, thành phố và toàn vùng, tạo sự phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau có hiệu quả giữa các địa phương.
Đẩy mạnh đầu tư xây dựng, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, bảo đảm phát triển cân đối, đồng bộ, đi trước một bước; nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao…
Kết luận cũng nhấn mạnh đến việc phát triển nhanh công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế cho vùng và cho cả nước; đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo của vùng đạt trên 80%, tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4% năm 2020, quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động…
Tăng cường quản lý, khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Phát triển kinh tế-xã hội kết hợp với củng cố quốc phòng, an ninh cần được tổ chức thực hiện trên từng địa bàn lãnh thổ ngay từ công tác quy hoạch, kế hoạch, xây dựng chương trình, dự án đầu tư.
Xây dựng chính sách tôn giáo, dân tộc và chính sách đất đai phù hợp. Phối hợp các lực lượng có liên quan, các cấp, các ngành xây dựng, củng cố lòng tin của nhân dân, xây dựng thế trận an ninh nhân dân kết hợp với thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc…
Nhiều kết quả quan trọng
Ngay sau khi được ban hành, Nghị quyết 53-NQ/TW, Kết luận số 27-KL/TW của Bộ Chính trị đã được các tỉnh, thành trong vùng tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, từng bước đi vào cuộc sống và đã đạt được những kết quả quan trọng.
Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa-Vũng Tàu Phạm Viết Thanh cho biết, sau 15 năm, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã khẳng định được vai trò, vị thế và trách nhiệm trong việc chủ động triển khai các hoạt động hợp tác, liên kết với các địa phương trong vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhất là địa phương liền kề như tỉnh Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh để phát huy những nguồn lực, lợi thế so sánh.
Các địa phương trong vùng đã thống nhất giải quyết nhiều khó khăn, vướng mắc, thách thức trong quá trình phát triển như hạ tầng giao thông kết nối, thu hút đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, lao động, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo, an sinh xã hội, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, ứng phó với biến đổi khí hậu,…
Theo Bí thư Tỉnh ủy Phạm Viết Thanh, nhờ triệt để tranh thủ những thời cơ, thuận lợi và thế mạnh của một tỉnh ven biển, Bà Rịa-Vũng Tàu đã từng bước hình thành và phát triển nền kinh tế biển đặc trưng với những thế mạnh như công nghiệp, cảng biển, khai thác, chế biến dầu khí, đánh bắt thủy hải sản, dịch vụ, thương mại, logistics.
Toàn cảnh Bãi Sau – thành phố Vũng Tàu. (Ảnh: Huỳnh Ngọc Sơn/TTXVN) |
Quy mô kinh tế của tỉnh đến năm 2020 đạt 309.730 tỷ đồng, gấp 3 lần so với năm 2005 (nằm trong số 4 địa phương đứng đầu của vùng); quy mô GRDP trên địa bàn tỉnh năm 2021 xếp top đầu của 63 tỉnh, thành phố. Chất lượng cuộc sống người dân ngày một nâng cao…
Trên cơ sở phân tích bối cảnh, thời cơ và thách thức trong giai đoạn mới, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thống nhất đề nghị Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045; trong đó tập trung vào 5 nhiệm vụ, giải pháp quan trọng, với 3 đột phá chiến lược gồm đẩy mạnh và đổi mới phân cấp cho các địa phương trong liên kết, điều hành vùng; đến năm 2030 đưa Cái Mép-Thị Vải trở thành Khu thương mại tự do với 3 chức năng (Cảng nước sâu trung chuyển quốc tế-Logistics-Hệ sinh thái công nghiệp công nghệ cao của cả vùng) và tiếp tục đầu tư cho Sân bay quốc tế Long Thành để trở thành cảng hàng không tầm cỡ thế giới, đạt công suất đến 100 triệu khách/năm; đẩy nhanh quá trình chuyển đối số; hình thành liên kết đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các địa phương trong vùng.
Theo Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Tiền Giang Võ Văn Bình, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 53-NQ/TW, thời gian qua, địa phương đã tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và nhân dân gắn với thể chế hóa các chủ trương của Nghị quyết thông qua việc ban hành các nghị quyết, chương trình, kế hoạch hành động của cấp ủy; ban hành cơ chế, chính sách của Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân…
Đồng thời, chú trọng công tác phối hợp với các bộ, ngành Trung ương để ban hành và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách một cách đồng bộ, hiệu quả; phối hợp với các địa phương trong vùng nhằm đưa Nghị quyết vào đời sống, tạo chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực phát triển kinh tế-xã hội.
Nhờ vậy, địa phương đã đạt những kết quả tích cực làm tiền đề và động lực phát triển giai đoạn 2021-2025 như: tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của tỉnh giai đoạn 2005-2020 đạt bình quân 9%/ năm.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, đúng mục tiêu, định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ của tỉnh các nhiệm kỳ…
Kế thừa những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, các đại biểu tham dự Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW và Kết luận số 27-KL/TW sẽ thảo luận, phân tích kỹ những khó khăn, vướng mắc, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tạo bứt phá trong liên kết phát triển kinh tế các tỉnh, thành trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng Đông Nam Bộ; phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân cũng như giữ vững quốc phòng-an ninh, đảm bảo trật tự xã hội trên địa bàn… để vùng phát triển nhanh, bền vững tương xứng với tiềm năng, lợi thế vốn có của mình./.
Nguồn: Báo xây dựng