Ninh Bình: Sào Khê – dòng sông mang nhiều nét văn hóa cổ

(Xây dựng) – Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình) được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, một Di sản kép đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam Á, nhưng dòng sông Sào Khê có nhiều nét văn hóa cổ thì còn nhiều người chưa biết đến.

ninh binh sao khe dong song mang nhieu net van hoa co
Tràng An có 48 hang động xuyên thủy và 50 hang động trên cạn.

Vùng lõi Quần thể danh thắng Tràng An với diện tích khoảng hơn 6.000ha, có dấu tích của người tiền sử từng sinh sống cách đây trên 30.000 năm và là nơi phát tích nhà Đinh, mở ra nền độc lập chính thống của nhà nước phong kiến Đại Việt cách đây trên 1.000 năm. Tràng An có 99 ngọn núi đá vôi, 48 hang động xuyên thủy và 31 thung lũng (áng) cùng với 50 động cạn, theo một vòng tròn khép kín khoảng 15km đường thủy.

Mỗi thung lũng có từ 2-5 cửa hang liên thông với nhau tạo cho nơi đây giống như trận đồ bát quái dễ đường vào, khó đường ra. Văn bia cổ còn ghi, Tràng An vùng đất “Thoái khả dĩ thủ, tiến khả dĩ công” tạm dịch là: Lui có thể giữ và tiến có thể đánh, một thế đất thành trì quân sự. Con sông Sào Khê (Sào Khê là sông qua núi) có nhiều điển tích lịch sử văn hóa và giá trị địa chất.

Chính sử chép, khi Ngô Quyền băng hà thì 12 sứ quân tranh hùng chia cắt giang sơn, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp xong loạn 12 sứ quân này và thống nhất đất nước. Đinh Bộ Lĩnh xưng vương hoàng đế, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt, một nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền đầu tiên của Việt Nam, đặt kinh đô tại Hoa Lư, Ninh Bình. Sông Sào Khê được ghi vào lịch sử, con sông đã nâng thuyền đưa Đinh Bộ Lĩnh đi dẹp loạn 12 sứ quân và cũng chính trên dòng sông này đã xuôi thuyền vua Lý rời đô ra Thăng Long năm 1010.

ninh binh sao khe dong song mang nhieu net van hoa co
Sào Khê là dòng sông có nhiều nét văn hóa cổ.

Sào Khê – một dòng sông tráng ca nhưng cũng hằn sâu những bi thương trong cuộc nội chiến kế vị cung đình, còn khuất tích bởi không ai muốn khơi lại giọt sầu xót thương. Nhưng triều chính có thay đổi thì người trung quân ái quốc, vị nước vong thân vẫn được hậu thế tôn kính. Bên bến nước Sào Khê có ngôi đền cổ gọi là đền Trình, ngày trước tên là Phủ Đột, nơi diễn ra những cuộc xung đột giao tranh giữa tướng sỹ nhà Đinh và nhà Tiền Lê, thời kỳ đầu Lê Hoàn lên ngôi còn nhiều quan quân triều Đinh không thuần phục, đã dấy binh chống lại Lê Hoàn, cuộc chiến đau thương, bi thảm.

Ngay chính giữa sân của ngôi đền có bát hương thờ các tướng sỹ triều Đinh tiết nghĩa vong thân. Bên trong bái đường là nơi thờ các bậc Tả Thanh Trù và Hữu Thanh Trù là những vị quan khai quốc công thần của nhà Đinh. Họ là những người cai quản quốc khố vương triều, khi xảy ra biến loạn năm 979 đã đưa ấu chúa Đinh Toàn khi ấy 6 tuổi đến đây lánh nạn, tránh sự truy sát của nhà Lê. Bên trong hậu cung là nơi thờ các bậc tứ trụ triều đình nhà Đinh gồm: Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú… những dũng tướng mưu lược từ ngày đầu cùng Đinh Bộ Lĩnh khởi binh dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước.

Sông Sào Khê uốn lượn dưới chân các dãy núi đá vôi và gò đất thấp, trên sườn núi Quèn Cậy có cổng Tam Quan, cổng của con đường bộ chênh vênh vắt trên các mỏm đá tai mèo hành lễ tâm linh từ Quèn Cậy đến Quèn Vài và Quèn Đền Trần.

Hiện, tỉnh Ninh Bình có mở tuyến du lịch trên sông Sào Khê qua 9 hang động xuyên núi có tên gọi khác nhau và mỗi hang có một sự tích huyền bí, thú vị. Hang Tối dài 320m, thực mục lòng hang vừa dài vừa tối lại ngoắt ngoéo quanh co khúc khuỷu. Cửa hang có mỏm đá địa mạo tự nhiên nhô ra như hình 1 cụ rùa từ trong hang bò ra, gợi tích Tràng An trường tồn vĩnh cửu. Hang Tối khác với các hang động trong các dãy núi đá vôi ta thường thấy là lòng hang mát lạnh hơn ngoài trời, ở đây nhiệt độ lại luôn cao hơn ngoài trời từ 10 đến 20 độ (được ví như phòng xông hơi khổng lồ). Ngoài trời nắng ráo, nhưng đỉnh hang nhũ đá nước nhỏ giọt xuống như mưa nặng hạt, dân gian truyền tục đấy là rồng phun châu nhả ngọc, ai xuôi thuyền vào hang càng nhận được nhiều hạt nước thần càng nhiều lộc.

Qua hang Tối là một vùng thủy diện khá rộng, nước trong xanh, cảnh trí đẹp mắt với hoa súng khoe sắc, những cặp chim le le dạn người thản nhiên bơi lội… khơi nguồn cảm hứng sáng tác nghệ thuật cho các thế hệ tao nhân mặc khách. Cụ Nguyễn Du có để lại câu thơ: “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói tỏa, non phơi bóng vàng”. Người xưa còn gọi là thung lũng hang Sáng là thung lũng Tứ Quý, đầu mối của 4 cửa hang theo thế lưỡng nghi sinh tứ tượng. Bốn cửa hang gồm: Hang Tối, hang Sáng, hang Ba Giọt và hang Seo.

Hang Sáng dài 100m có hình chữ S địa đồ Việt Nam, từ tâm hang phóng tầm mắt ra hai đầu cửa hang giống như ta đứng trên đỉnh đèo Lăng Cô nhìn về hai đầu đất nước. Tên gọi hang Tối và hang Sáng không phải chỉ đơn thuần hang sâu thì tối, hang nông thì sáng, mà là tiền nhân thâm thúy răn dạy hậu sinh quy luật luân hồi “qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai”.

Hang Nấu Rượu dài 250m, tích xưa kể trong lòng hang có 1 mạch nước ngầm lớn ăn sâu xuống đáy thạch động, dân địa phương thường lấy nước tại đây để chưng cất rượu gạo. Rượu có mùi thơm, vị ngon nổi tiếng nhất vùng còn được tiến vua. Hang Nấu Rượu thông thủy xuyên núi là con đường thủy độc đạo ra vào đền Trần.

ninh binh sao khe dong song mang nhieu net van hoa co
Trong lòng hang Nấu Rượu có 1 mạch nước ngầm lấy nước nấu rượu thơm ngon.

Đền Trần trên lưng núi đá vôi, từ bến nước sông Sào Khê đoạn hang Nấu Rượu leo lên và xuống tổng cộng là 350 bậc đá. Tên gọi là đền Trần, nhưng không thờ đức ông hiển thánh cùng gia thất nhà Trần ta thường gặp trong hệ thống chùa chiền ở Việt Nam mà chính thần lại thờ Quý Minh Đại Vương, Thượng Đẳng Thần truyền thuyết ngài là một võ tướng từ thời Hùng Vương thứ 18, khi sống chung quân ái quốc – chết hiển thánh linh thiêng.

Khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước lên ngôi hoàng đế thế kỷ X đặt tên nước là Đại Cồ Việt, chọn Hoa Lư làm kinh đô. Nhà vua cho xây dựng 4 ngôi đền thiêng theo thuyết phong thủy tứ tượng sinh bát quái ở 4 cửa thành, để nhờ cậy uy linh tiền nhân phù hộ che chở, trấn trạch hoàng thành, mong “quốc thái, dân an, vũ điều, phong thuận”.

Năm 1258, Thái Thượng Hoàng Trần Thái Tông khi hoằng dương tu hành tại đây, ngài cho trùng tu xây dựng lại đền Trần, thay thế vật liệu xây dựng từ gỗ rừng sang đá xanh nguyên khối lấy từ núi Nhồi (Thanh Hóa), dựng 12 cột đá dầm xà ngưỡng ngạch, hiên lợp bằng đá phiến, bên trong được cuốn vòm vật liệu chủ yếu là vôi, mật mía và giấy bạc, mái lát bằng gạch thất cải chữ công. Cuối thế kỷ XIX đầu XX đền được trùng tu thêm một lớp vôi vữa xi măng, nét kiến trúc ấy còn giữ đến ngày nay. Trước cửa đền Trần là 54ha rừng nguyên sinh, nhiều cây si rừng hàng ngàn năm tuổi và có nhiều hoang thú sinh trưởng như Phượng Hoàng đất có bầy đàn khá đông.

Hang Ba Giọt dài 200m, còn có hình cụ rùa trên lưng đội ngọn nến, gắn liền với câu chuyện tình chung thủy. Chuyện kể rằng: Đất Hoa Lư có chàng trai tuấn tú đã hứa hôn cùng một cô gái làng xinh đẹp “trai tài gái sắc”, tưởng thành vợ thành chồng, nhưng không ngờ đến ngày hôn lễ, thì bất ưng triều đình triệu nàng vào cung để gả bán cho một lãnh chúa nước láng giềng nhằm tránh cuộc đao binh lân bang. Chàng trai đã vô cùng đau khổ, thương tiếc mối tình đầu vào hang đá này thắp trên lưng cụ rùa đá 1 ngọn nến rồi khóc than thâu đêm suốt sáng, cầu nguyện cho chuyện tình của các đôi lứa trần gian không bị lìa tan. Chàng khóc mãi, khi dòng nước mắt của chàng chảy thành dòng nước thứ ba trong lòng hang thì gọi tên hang là Ba Giọt (vào mồng một hôm rằm trời quang mây tạnh, mắt thường có thể nhìn rõ 3 dòng lưu thủy có màu sắc khác nhau cùng chảy ra cửa hang. Nơi chàng trai đặt sính lễ có tên là hang Sính, nơi chàng trai tắm gội trước khi quyên sinh tên gọi là hang Ao Trai, nơi chàng trai tuẫn tiết gọi là hang Si.

Hang Trần dài 250m và thung lũng Trần gắn liền với lịch sử hào hùng của nhà Trần đánh giặc Nguyên – Mông lần thứ 2 và thứ 3. Khi ấy, trước sức mạnh của quân Nguyên – Mông, Trần Triều đã lui binh chiến lược để kháng chiến. Thực hiện mưu lược vườn không nhà trống, đã di dời từ hoàng thành Thăng Long về lại Hoa Lư xây dựng căn cứ địa lấy núi làm thành, lấy sông làm hào và hang động là nơi ém quân, đã làm nên chiến thắng phá cường định, thắng quân Nguyên – Mông vẻ vang nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam.

Hang Quy Hậu dài 100m là hang động không cần đèn đuốc có thể phóng tầm mắt từ đầu hang đến cuối hang. Truyền tục, thiên nhiên ban cho con người một chiếc ống nhòm “siêu” lớn nhìn xuyên qua bóng tối, có giá trị giáo dục nhân loại: Không gì khó, có nghị lực ta có thể từ hiện tại nhìn thấu suốt tương lai.

ninh binh sao khe dong song mang nhieu net van hoa co
Bến nước Sao Khê có nhiều ngôi đền cổ đại thờ quan khai quốc công thần từ thời nhà Đinh.

Trong số 31 thung lũng có thung Phủ Khống. “Khống” là nơi khống chế cửa ải phía Tây Nam của nhà Đinh. Tương truyền, khi vua Đinh Tiên Hoàng băng hà vì bị thuộc hạ mưu sát, triều đình cho đúc 100 cỗ áo quan bằng đồng, trong đó có 1 cỗ để hài cốt nhà vua. Khi ấy, trong triều có 7 vị quan đại thần tự tay khâm liệm nhà vua rồi đưa 100 quan tài ra khỏi cung, đưa đi an táng theo 4 hướng. Sau khi an táng xong, 7 vị quan trung thần đã chung nhau uống chén rượu độc, tuẫn tiết mang theo tấm lòng trung quân và bí mật của lăng mộ vua Đinh (nay chưa biết lăng mộ chính thức của Đinh Tiên Hoàng ở đâu).

ninh binh sao khe dong song mang nhieu net van hoa co
Cây thị cổ thụ một cành ra hai loại quả khác nhau, một loại quả to tròn có hạt một loại quả nhỏ dẹt không có hạt.

Cảm kích nghĩa khí của bậc quân vương, vị quan đầu triều trấn ải phía Nam là Đinh Công Tiết Chế đã cho lập bát hương trên một phiến đá bên mép nước sông Sào Khê và trồng bên cạnh một cây thị, hàng ngày đến bữa, ông đưa mâm cơm ra cúng tiến 7 vị quan tuẫn tiết nói trên. Cây thị sinh trưởng nhanh, kỳ lạ khác với cây thị thông thường, nó một cành mà ra hai loại quả khác nhau, một loại quả to tròn có hạt một loại quả nhỏ dẹt không có hạt, thị chín rộ đúng vào ngày giỗ vua Đinh Tiên Hoàng rằm tháng tám thường niên và trên ngọn cây thường ra hoa trái vụ. Cây thị trồng từ ngày đó nay không còn nữa do vòng đời cây cối có hạn, nhưng ngay thổ đất ấy tự mọc lên một cây thị mới tuổi cây chưa rõ bao trăm năm cũng có đặc tính y như cây thị mẹ.

Thiên Phúc Tự (chùa Báo Hiếu) người dân quen gọi là chùa Báo Hiếu, nhưng thực tế không phải là nơi tu hành tín ngưỡng tôn giáo mà thuộc hệ công trình đền miếu, đền thờ nghĩa sỹ tử trận, đồng loại tử nạn các thời kỳ lịch sử. Đền như đài tưởng niệm vinh danh nghĩa sỹ, liệt sỹ trong trận mạc không phân biệt vương triều… nét văn hóa từ bi của người Việt cầu mong liệt nam, liệt nữ nghĩa hiệp vong thân siêu sinh – tịnh độ.

Nguồn: Báo xây dựng

Bạn cũng có thể thích