Nhà vườn Việt Nam xưa
(TN&MT) – Nói đến nhà vườn Việt Nam xưa không chỉ đơn thuần bàn về kiểu dáng, bố cục, vật liệu, cách thức làm nhà, mà còn mang cả ý nghĩa về văn hóa thôn quê, làng xã, vậy nên, nó thường được gắn với cụm từ “Nếp nhà xưa”.
Nếp nhà xưa thường bao giờ cũng có Nhà trên (Chính), nơi đặt bàn thờ và gian ở của chủ nhà. Nhà dưới để phục vụ những công việc thường ngày, nơi nghỉ của những thành viên khác hoặc có thể là khách của gia đình. Nhà bếp và những công trình phụ liền đó.
Nhà ở miền Bắc, đằng trước hoặc sau nhà thường có một cái ao. Nhận xét theo địa lý (phong thủy) thì người ta thường nói Thổ phải có Thủy như Rồng có Mắt (Long nhãn). Trên thực tế, việc đào ao đem lại nhiều tiện lợi. Trước khi làm nhà, người ta đào ao lấy đất và bùn đấy đem lên đắp nền nhà hoặc trộn rơm (băm rời) để trát vách. Ao ấy sẽ được thả cá để ăn, để bán và nuôi bèo cho lợn hoặc trồng rau muống nước. Mảnh đất nối giữa nhà với ao thường còn được trồng những khóm hoa. Những nhà có đất rộng, ven mương, ven sông còn trồng vườn cam, vườn quất, mùa xuân hoa ngát thơm.
Nhà vườn Việt Nam có nhiều kiểu khác nhau, tùy theo từng địa phương và địa vị xã hội, khả năng tài chính của chủ nhà. Vì điều kiện thổ địa và nhất là dùng vật liệu có sẵn, nên nhà ở Việt Nam xưa phần nhiều làm bằng tre hoặc gỗ. Ngoài ra cũng có số ít nhà gạch.
Những gia đình nghèo làm nhà tranh, vách đất. Khung nhà, sườn nhà bằng tre hay ống bương, mái lợp tranh hay lợp rạ, vách trát bằng đất bùn nhồi với rơm hay đất sột. Nền nhà là đất kết dính có màu đỏ hoặc mỡ gà, được nện kỹ bằng những chiếc đầm (tròn, cán gỗ đứng) hay những chiếc vồ gỗ to, nặng. Công đoạn này cần nện kỹ để về sau nền đất láng bóng như nền xi măng và không bị nứt nẻ.
Những gia đình có kinh tế trung bình thì làm nhà gỗ, phần nhiều là gỗ xoan, vách dựng phên tre hoặc gỗ. Mái lợp tranh hoặc lá gồi… Những người khá giả, giàu có làm nhà ngói. Cột nhà dựng bằng gỗ mít, gỗ gụ…, tường nhà xây gạch, nền lát gạch, sân lát gạch…
Khung nhà dựng lên theo dàn mái, đặt trên mặt đất, không đổ móng. Cột nhà gỗ thường kê trên những hòn đá tảng tròn hoặc vuông cao từ 15 – 20cm. Đôi khi những hòn đá tảng này cũng được thay bằng những viên gạch chồng lên nhau hoặc là chôn chân cột xuống dưới đất sâu từ 30 – 50cm. Nhà tre phần nhiều chôn chân cột sâu vào lòng đất, có những nhà trồng cột bằng tre tươi mà sau đó từ cột nhà đó mọc ra những cành tay tre.
Lối kiến trúc nhà vườn Việt Nam không phải chỉ là công việc thuần túy cho thành hình một lều, mái tranh hay căn nhà gỗ mà còn là một công trình kiến trúc mỹ thuật giản dị, thuần phác. Nhà của người Việt có nhiều gian, nằm thành dãy (dãy nhà trên, nhà dưới hay nhà ngang, nhà bếp). Tất cả nằm vuông xung quanh mặt sân rộng.
Khi làm nhà, trước tiên dựng 4 cột cái gian giữa và đòn nóc. Sau thêm những cột cái và kèo các gian bên. Rồi đến các hàng cột con và cột hiên. Vì lý do thổ địa và vật liệu, những cột, kèo ấy phải chằng chịt nhau để thành một khung nhà thật vững. Rồi trên đó đặt mái nhà, mái nhà phải nặng, vách nhà phải vững chắc, phòng khi gió bão.
3 gian chính, mặt tiền thường để trống. Nhà gỗ lắm cửa lùa, cửa xếp, mỗi lần mở thì mở hết ra. Những nhà giàu thì làm cửa cao vào khoảng trên dưới 80cm. Nhà tre làm cửa liếp, ban ngày chống cao lên, tối hạ xuống. Có nhà chỉ treo một cái rèm thưa. Có một điều đặc biệt là mặt sau của gian chính giữa không khi nào có cửa sổ. Có lẽ vì gian ấy đặt bàn thờ tổ tiên, ông, bà.
Bàn thờ kê sát vách, có khi bàn thờ còn được đặt trên 1 cái rầm cao độ 40cm. Trước bàn thờ còn kê bộ bàn ghế, những nhà khá giả kê thêm 1 bộ sập hay bộ phản (bộ ván) bằng gỗ, làm nơi tiếp khách.
2 gian bên có kê những bộ phản gỗ để làm nơi nghỉ ngơi, trò chuyện của nhiều người trong gia đình hay nơi ăn uống trong những ngày cúng giỗ, Tết. 3 gian thường thông luôn nhau. Để ngăn những gian bên ra với những gian chái 2 đầu nhà, người ta làm vách gỗ, vách đất hay vách phên tùy theo tình trạng mỗi gia đình. 2 căn chái 2 bên thường là buồng ngủ hay nơi chứa lúa, gạo, chứa các vật dụng cần thiết, tài sản trong nhà.
Những nhà khá giả, trước nhà thường làm một mái hiên rộng, chạy suốt 5 gian 2 chái hay 3 gian 2 chái. Đôi khi chỉ có mái hiên trước gian chính, bề rộng mái hiên có khi đến 1,5m và có hàng cột hiên.
Ở miền Bắc nhà nào cũng làm cổng, cổng nhà có nhiều kiểu khác nhau, có khi là 1 tấm liếp bằng tre đan có thể kéo lên, hạ xuống hay là kéo ngang. Bên trên cổng cũng có mái nhỏ lợp lá hay ngói.
Ở Huế, có nhiều nhà làm cổng rất đẹp, tường nhà xây, cổng gỗ, nóc cũng lợp ngói. Nhưng càng đi vào phía Nam, cổng nhà hầu như không còn nữa, ở đồng bằng Nam Bộ nhiều nhà chỉ làm 1 chà gai vững chắc, đêm đến kéo ngang, ngăn ngõ ra vào là đủ.
Kiểu nhà xưa ở Việt Nam đặc trưng nhất là có 4 mái, 2 mái chính và 2 mái chái ngang. Rồi đến kiểu nhà 2 mái bịt đốc không chái. Căn cứ vào những nhà nhỏ bằng đất nung đào thấy ở các mộ xưa tại Nghi Vệ (Bắc Ninh), Lạc Y (Vĩnh Yên), Đông Sơn (Thanh Hóa) thì 2 kiểu nhà trên đã có từ thế kỷ thứ III, thứ IV ở miền Bắc Việt Nam. Nhà của mỗi nơi mỗi khác, đều có những đặc điểm khác nhau giữa 3 miền, tùy theo từng địa phương mà khung nhà, mái nhà thay đổi đi với nhiều tên khác nhau.
Cách thức và phong tục làm nhà ở 3 miền tuy có những điểm khác nhau, tùy theo mỗi nơi, mỗi nhà nhưng đều chỉ là những biến cách từ cơ sở chung nhất chứ không có sự khác biệt hẳn, vẫn giữ được những nét đặc thù chung của nhà vườn Việt Nam xưa, thanh lịch và thuần phác, ấm cúng mà êm đềm, dịu hiền mà trong trẻo như tâm hồn người Việt xưa, dẫu qua bao năm tháng phôi pha, phong trần mà chẳng hề phai nhạt , luôn khắc khoải trong tâm hồn cùng biết bao kỷ niệm để những cậu bé đầu bạc trắng mà vẫn khát khao yêu thương hoài niệm ngôi nhà xưa cùng bao bóng hình thân yêu cũ.