TCVN 13909:2024 về sách giáo khoa- yêu cầu phương pháp thử

Sách giáo khoa là loại sách cung cấp kiến thức, được biên soạn với mục đích dạy và học tại trường học. Thuật ngữ sách giáo khoa còn có nghĩa mở rộng là loại sách chuẩn cho một ngành học. Sách giáo khoa được phân loại dựa theo đối tượng sử dụng hoặc chủ đề của sách. Việc xuất bản sách giáo khoa thường dành cho các nhà xuất bản chuyên ngành.

Kiến thức trong sách giáo khoa là một hệ thống kiến thức khoa học, chính xác, theo các cấp độ logic chặt chẽ khác nhau. Ngoài phần kiến thức, sách giáo khoa còn có phần nội dung về rèn luyện các kỹ năng. Nội dung kiến thức cũng như nội dung về rèn luyện kỹ năng được gia công về mặt sư phạm cho phù hợp với trình độ học sinh và thời gian học tập. Logic của nội dung kiến thức và phần nội dung về rèn luyện các kỹ năng là những yếu tố chủ yếu trong việc định hướng lựa chọn phương pháp giảng dạy môn học.

Ngày nay, bên cạnh dạng sách in, nhiều sách giáo khoa có phiên bản sách điện tử. Tuy nhiên, tình trạng in sách lậu, sách giả tràn lan thị trường đã gây không ít hệ lụy cho người đọc, đặc biệt là thế hệ học sinh tương lai. Vì vậy việc in sách, trình bày nội dung, kỹ thuật gia công sách giáo khoa nên đảm bảo theo tiêu chuẩn quy định. 

Hiện, Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13909:2024 Sách giáo khoa – yêu cầu và phương pháp thử nhằm đưa ra yêu cầu và phương pháp thử đối với sách giáo khoa, bao gồm trình bày nội dung sách, giấy in sách, khuôn khổ sách, kỹ thuật in sách, kỹ thuật gia công sách. Tiêu chuẩn này chỉ áp dụng cho sách in.

Về trình bày nội dung Bìa 1 tiêu chuẩn hướng dẫn nên theo thứ tự từ trên xuống bao gồm các thông tin: Tên tác giả (cá nhân hoặc tập thể); Tên sách phải trình bày theo thứ tự các thông tin sách giáo khoa; Tên môn học hoặc hoạt động giáo dục; Tên lớp học hoặc cấp học (nếu có); Số thứ tự tập (nếu có). Đối với phần lô gô, tên nhà xuất bản và lô gô, tên đối tác liên kết không được để trên và có kích thước lớn hơn, số lượng nhiều hơn lô gô, tên của nhà xuất bản.

In, trình bày sách giáo khoa nên theo tiêu chuẩn để đảm bảo tính chính xác, chất lượng. (Ảnh minh họa)

Bìa 2, 3, 4 phải bao gồm các thông tin giới thiệu tác giả, tác phẩm, sách giáo khoa của nhà xuất bản (nếu có); Mã số ISBN tích hợp mã vạch phải in tại góc dưới bên phải bìa 4. Nếu là sách có bìa bọc thi in trên bìa bọc; Giá bán sách ghi ở góc bên phải, phía dưới bìa 4; dòng chữ “Sách không bán” ghi ở bìa 4. Dòng chữ “Sách Nhà nước đặt hàng” đối với sách Nhà nước đặt hàng ghi ở bìa 4;

Đầu chữ ở gáy sách hướng về Bìa 1. Nếu để sách nằm, Bìa 1 lên trên (Bìa 4 úp xuống) thì trình bày theo thứ tự từ trái sang phải: tên tác giả – tên sách – lô gô hoặc tên nhà xuất bản. Nếu sách có độ dày đủ lớn, để sách đứng thì có thể trình bày đầu chữ ở gáy sách hướng lên đầu sách, trình bày theo thứ tự từ trên xuống: tên tác giả, tên sách, lô gô hoặc tên nhà xuất bản. Sách có độ dày gáy nhỏ, sách đóng lồng không ghi chữ ở gáy sách đối với các loại sách này. Ruột sách trên mặt trước bìa lót chỉ ghi tên sách. Tùy theo sự chẵn, lẻ của tay sách mà có thể có hay không có trang bìa lót.

Những thông tin ghi ở trang tên sách phải đầy đủ tên tác giả (có thể có học hàm, học vị), nếu là tập thể thì ghi họ tên người tổng chủ biên, chủ biên (nếu có), hoặc họ tên người tổng chủ biên, người chủ biên từng phần, và họ tên từng thành viên; Tên nhà xuất bản; Tên sách; Số thứ tự tập (nếu có); Lần tái bản.

Trang tít tổng hợp đặt ở mặt sau bìa lót (nếu sách có bìa lót) hoặc trang sau của trang tên sách. Trang tít tổng hợp bao gồm các thông tin về Hội đồng thẩm định sách giáo khoa.

Việc trình bày trang Lời nhà xuất bản, Lời nói đầu phải tuân theo thứ tự: Lời nhà xuất bản; Lời nói đầu. Trang tra cứu và hướng dẫn bao gồm các thông tin: Bảng ký hiệu và chữ viết tắt; Hướng dẫn sử dụng sách; Chỉ mục (Index). Trang tài liệu tham khảo (nếu có) được trình bày theo thứ tự: Tên tác giả; Tên tài liệu tham khảo; Tên nhà xuất bản; Nơi xuất bản; Năm xuất bản.

Yêu cầu về trang cuối sách giáo khoa phải bao gồm các thông tin: Họ tên người chịu trách nhiệm xuất bản, họ tên người chịu trách nhiệm nội dung, họ tên người biên tập nội dung, họ tên người biên tập kỹ – mỹ thuật, họ tên người trình bày, họ tên người vẽ bìa, minh họa, họ tên người sửa bản in; Số lượng in, khổ sách, nơi in; Số xác nhận đăng ký xuất bản, số quyết định xuất bản của giám đốc nhà xuất bản hoặc giấy phép xuất bản; Mã số ISBN; Thời gian nộp lưu chiểu; Thông tin về bản quyền theo quy định.

Cách trình bày đề mục, tiểu đề mục trên trang in phải dùng nhiều phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ khác nhau cho những sách có nhiều cấp độ đề mục và tiểu đề mục. Cách trình bày minh họa, biểu đồ, sơ đồ, bản đồ, tranh, ảnh: biểu đồ, sơ đồ, bản đồ tranh, ảnh có thể đặt ở bất kỳ vị trí nào trong trang chữ, nhưng phải được chú thích với nội dung phù hợp. 

Lề trắng trang sách là khoảng cách từ mép trang chữ đến mép cạnh ngoài của sách theo 4 hướng: đầu sách, chân sách, bụng sách và gáy sách. Lề trắng phải phù hợp với khuôn khổ trang chữ và khuôn khổ sách. Lề trắng đầu sách, chân sách, bụng sách, gáy sách không nhỏ hơn 1 cm, trừ phần ảnh.

Sách giáo khoa không được có lỗi làm sai lệch nội dung. Lỗi không làm sai lệch nội dung phải được đính chính kèm theo sách. Giấy in phải phù hợp với các yêu cầu về kỹ thuật yêu cầu về khổ sách giáo khoa được quy định từ khổ 17 cm x 24 cm đến khổ 20,5 cm x 29,7 cm.

Kỹ thuật in mặt trước và trang in mặt sau phải chồng khít lên nhau (sai lệch cho phép không lớn hơn 1 mm). Các chi tiết in phải rõ nét, không hằn mặt sau, sạch sẽ, đều mực, ảnh tram lên hết tầng thứ, hạt tram đanh gọn, không bị bẩn, ở những vị trí không in. In chồng màu chính xác; mầu mực đồng đều ở tất cả các trang trong một cuốn sách.

Kỹ thuật gia công đối với sách bìa cứng nếp gấp phải chết nếp, đường gấp không xiên lệch, nhăn, rách; tay sách phải phẳng, đều, không bẩn, hằn vết, cong, vênh giấy. Đối với sách có khổ trang chữ thống nhất: bát chữ và số trang giữa các trang phải chồng khít nhau. Đối với sách không có khổ trang chữ thống nhất: hình ảnh trên trang theo thiết kế yêu cầu. Các thành phần chung như số trang và tiêu đề đầu trang phải chồng khít lên nhau. Đảm bảo số trang sách liên tục và đầy đủ.

Ruột sách khâu phải chắc, không có lỗi về kỹ thuật (chỉ bị rối, bị tước sợi, lỗ khâu bị rách). Tay sách được khâu đủ mũi, mũi khâu phải nằm trên đường gấp, gọn gàng và không bị lệch. Chỉ khâu phải sạch sẽ, không bị bẩn, dính dầu máy, các tay sách không bị bần, rách, nhăn…

Việc xén ruột sách phải vuông góc, đúng kích thước, mặt xén phải trơn phẳng, gọn mép, không gấp góc. Các trang không bị xê dịch, không bị dính vào nhau, không bị biến dạng. Kích thước ruột sách sau khi xén phải đúng với khổ thành phẩm.

Vật liệu bọc bìa phải dai, bền và chắc đảm bảo khi mở gấp nhiều lần. Các tông lót bìa phải đáp ứng yêu cầu có độ dày đồng nhất, phẳng và không bị cong, thùng. Độ dày các tông phù hợp với khuôn khổ sách từ 0,8 mm đến 3 mm; Chiều cao cánh bìa: lớn hơn chiều cao của ruột sách từ 3 mm đến 6 mm; Chiều rộng của cánh bìa: bằng chiều rộng khổ thành phẩm của ruột sách; Chiều rộng của rãnh bìa phù hợp với độ dày các tông.

Bao bìa phải đáp ứng yêu cầu về khoảng cách từ mép cắt đến bìa là 3 mm; Tờ bao bìa phải dán ép sát vào các tông. Bề mặt bìa sau khi bọc phải bằng phẳng, không bị nhăn, không nổi bỏng khí (thiếu keo); Các mép dán phải sát góc, dán (hoặc dính) chặt vào các tông bìa; Hai đường cấn rãnh gáy giữa các tông bìa và gáy phải phù hợp với độ dày các tông làm bìa.

Đối với phương pháp đóng sách bìa mềm có khâu chỉ gần giống với đóng sách bìa cứng ở công đoạn gia công ruột sách nên tuân thủ các yêu cầu quy định tại tiêu chuẩn này. Việc vào bìa đối với sách bìa mềm phải có đường cấn rãnh bìa cách gáy bìa 5 mm. Các đường cấn song song với nhau, không bị lệch, méo mó; Vạch gấp gáy của bìa sách phải trùng với cạnh của gáy sách; Gáy sách bằng phẳng, bìa được dán chặt vào ruột, không bị lỗi; Độ dày lớp keo trên gáy phải vừa đủ, lớp keo không được tràn xuống hai bên ruột sách hay tràn vào bên trong ruột sách.

Ngoài những yêu cầu kỹ thuật sách giáo khoa phải đáp ứng ở trên, tiêu chuẩn cũng hướng dẫn thực hiện phương pháp thử đối với giấy in nên thử nghiệm về định lượng, sai số cho phép, khối lượng riêng, độ trắng sáng ISO, độ đục, độ hút nước, độ nhẵn, chỉ số độ bền, độ bụi, độ ẩm.

Việc kiểm tra trình bày, chế bản và nguyên tắc kỹ thuật sắp chữ, đặt trang bằng mắt, kính lúp, thước đo và các nguyên tắc kỹ thuật về in. Kiểm tra kỹ thuật đối với gia công sách bằng mắt, thước đo, bằng lực kéo, các nguyên tắc kỹ thuật gia công sách. Kiểm tra khuôn khổ sách bằng thước đo để đảm bảo chính xác.

An Dương

Nguồn: Tạp chí điện tử chất lượng Việt Nam

Bạn cũng có thể thích