Những điều doanh nghiệp xuất khẩu cần lưu ý trong vụ kiện phòng vệ thương mại

Những năm gần đây, Việt Nam đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào mạng lưới Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Tuy nhiên, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng đang bị các nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) với tần suất khá dày.

Để bảo vệ các ngành sản xuất nội địa, Việt Nam cũng sử dụng nhiều hơn các công cụ PVTM. Tính đến tháng 6/2024, Việt Nam đã phải đối mặt với 252 vụ việc điều tra PVTM từ 24 thị trường với đa dạng các mặt hàng. Đồng thời, cơ quan điều tra nước ngoài thường xuyên rà soát các vụ việc PVTM với quy trình và các yêu cầu rất phức tạp.

Theo Bộ Công Thương, công tác cảnh báo sớm cũng như hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các vụ việc PVTM đã mang lại kết quả tích cực. Nhiều vụ việc các doanh nghiệp xuất khẩu không bị áp thuế PVTM hoặc bị áp thuế ở mức thấp, góp phần giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu. Việt Nam luôn chủ động vận dụng và ứng phó với các biện pháp PVTM nhằm ngăn chặn những tác động tiêu cực của hàng hóa nhập khẩu ồ ạt, cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ các ngành sản xuất trong nước.

Ảnh minh họa

Trước việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ vẫn chưa xếp Việt Nam là nền kinh tế thị trường (KTTT). Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Hoa kỳ sẽ còn tiếp tục bị phân biệt đối xử trong các vụ điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp của Mỹ. Chi phí sản xuất thực tế của doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục không được công nhận, mà phải sử dụng “giá trị thay thế” của một nước thứ 3 để tính toán được biên độ bán phá giá.

Để có thể đảm bảo được quyền lợi của mình trong các vụ kiện PVTM tại Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chủ động và chuẩn bị kỹ lưỡng các vấn đề sau:

Thứ nhất, cần nâng cao hiểu biết về luật pháp và quy định thương mại quốc tế; trang bị, cập nhật kiến thức về các quy định pháp luật về PVTM của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nói chung và Hoa Kỳ nói riêng; bao gồm các quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp. Hiểu rõ các tiêu chí và quy trình để chuẩn bị tài liệu và bằng chứng phù hợp cũng như hợp tác với phái đoàn điều tra của những cơ quan này.

Thứ hai, cần xây dựng mối quan hệ, tham gia, hợp tác các hiệp hội liên quan tại Mỹ để có thêm thông tin, tăng cường trao đổi, sự hỗ trợ và tư vấn chuyên môn khi cần thiết, tránh việc các doanh nghiệp Mỹ khởi kiện. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần tăng cường hoạt động truyền thông để nâng cao nhận thức của cộng đồng quốc tế về sự phát triển của kinh tế Việt Nam.

Thứ ba, cần tăng cường minh bạch tài chính và quản trị của doanh nghiệp. Việc xây dựng và duy trì hệ thống quản lý tài chính minh bạch, tuân thủ các chuẩn mực kế toán quốc tế để tránh bị cáo buộc về trợ giá hoặc bán phá giá. Do đó, doanh nghiệp cần lưu giữ hồ sơ chi tiết và minh bạch về mọi hoạt động kinh doanh của mình.

Thứ tư, cần xây dựng các kịch bản và kế hoạch để ứng phó với các quyết định PVTM, bao gồm việc tìm kiếm thị trường thay thế, điều chỉnh chiến lược kinh doanh và tối ưu hóa chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải thường xuyên trao đổi với các cơ quan trong nước, cơ quan đại diện về tình hình, diễn biến xuất khẩu, nguy cơ bị kiện PVTM khi xây dựng kế hoạch sản xuất, xuất khẩu.

Các cơ quan này cũng có thể cung cấp các chứng cứ và số liệu minh bạch, thể hiện rằng hoạt động kinh doanh tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế cho doanh nghiệp khi cần thiết. Đặc biệt khi vụ việc xảy ra để có thể xây dựng phương án xử lý kịp thời. Những lý do được phía Mỹ đưa ra là Việt Nam vẫn sử dụng nhiều biện pháp hành chính như: Trần lãi suất, room tín dụng, và kiểm soát giá cả đối với điện, xăng dầu, vàng. Điều này ảnh hưởng đến đánh giá của Hoa Kỳ.

Do vậy, để có thể chuẩn bị cho lần tiếp theo, chúng ta cần thực hiện các công việc như sau: Cần tập trung vào tạo lập môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh; Nghiên cứu kỹ những điểm phía Mỹ nêu ra, điểm nào chúng ta khắc phục được chúng ta cũng đưa ra lộ trình; điểm nào cần trao đổi, chúng ta tổ chức các cuộc đàm phán và đối thoại với Mỹ để giải quyết các vấn đề còn tồn tại và chứng minh những tiến bộ của Việt Nam đã đạt được.

Những tiến bộ của Việt Nam trong thời gian vừa qua để hướng tới nền KTTT là không thể phủ nhận. Điều này thể hiện ở những hoạt động như: Các Tập đoàn lớn của Mỹ như: Apple, Google, Intel đã đầu tư và mở rộng đầu tư vào Việt Nam, cho.thấy chúng ta có môi trường đầu tư kinh doanh tốt, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của những doanh nghiệp này.

Việt Nam cũng đã đáp ứng nhiều tiêu chí của Mỹ như khả năng chuyển đổi tiền tệ, thương lượng lương tự do và tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài. Chúng ta phải làm sâu sắc thêm những điểm này trong những lần đàm phán và chuẩn bị hồ sơ sắp tới.

Theo khoản 771 của Đạo luật Thuế quan Hoa Kỳ 1930, có 6 tiêu chí khi xem xét một quốc gia KTTT bao gồm: Mức độ chuyển đổi của đồng tiền; Vấn đề đàm phán tiền lương, tiền công giữa người lao động và người sử dụng lao động; mức độ đầu tư nước ngoài vào các hoạt động kinh tế; vấn đề sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân; mức độ kiểm soát của Chính phủ với một số nguồn lực và giá cả và các yếu tố khác.

Khánh Mai (t/h)

Nguồn: Tạp chí điện tử chất lượng Việt Nam

Bạn cũng có thể thích