Những điểm tích cực và hạn chế của thị trường lao động tác động đến năng suất lao động
Trong nước, lực lượng lao động, số người có việc làm quý II năm 2024 tăng so với quý trước và tăng so với cùng kỳ năm trước. Lao động phi chính thức vẫn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng hơn 3/5 tổng số lao động có việc làm của cả nước. Thu nhập bình quân tháng của người lao động giảm so với quý trước và tăng so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động tăng so với quý trước và giảm so với cùng kỳ năm trước. Tình hình thất nghiệp thanh niên 15-24 tuổi duy trì mức cao, tỷ lệ này tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động tăng so với quý trước và không thay đổi so với cùng kỳ năm trước. Điều này đã tác động trực tiếp đến năng suất lao động.
Trong đó, những điểm tích cực giúp nâng cao năng suất lao động như: Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý II năm 2024 là 52,5 triệu người, tăng 148,6 nghìn người so với quý trước và tăng 217,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt gần 52,5 triệu người, tăng 196,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
Nhiều điểm tích cực của thị trường lao động tác động lên năng suất lao động.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý II năm 2024 là 68,6%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với quý trước.
Lao động có việc làm quý II năm 2024 đạt hơn 51,4 triệu người, tăng 126,6 nghìn người, tương ứng tăng 0,25% so với quý trước và tăng 217,4 nghìn người, tương ứng tăng 0,42% so với cùng kỳ năm trước. Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng với quy mô dân số trong độ tuổi lao động dồi dào và tăng hàng năm, đây là lợi thế để bổ sung lực lượng lao động, bao gồm cả lao động có việc làm.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, lao động có việc làm đạt 51,4 triệu người, tăng 195,7 nghìn người (tương ứng tăng 0,38%) so với 6 tháng đầu năm 2023. Tỷ lệ lao động Việt Nam có bằng, chứng chỉ quý II/2024 đạt 28,1%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Nước ta cũng như nhiều quốc gia khác, đang trải qua quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa nhanh chóng, nhu cầu về nhân lực có trình độ cao và có kỹ năng ngày càng tăng. Do đó, nhận thức về sự cần thiết của việc duy trì và phát triển kỹ năng thông qua việc học tập liên tục được doanh nghiệp, người lao động chú trọng. Việt Nam đã quan tâm nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng cơ sở hạ tầng giáo dục nhằm cung cấp cơ hội học tập cho nhiều người lao động hơn. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp tục học tập và nâng cao trình độ sau khi tham gia vào lực lượng lao động.
Thu nhập bình quân tháng của người lao động quý II năm 2024 là 7,5 triệu đồng, tăng 490 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. So với cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng thu nhập bình quân tháng của người lao động quý II/2024 (đạt 7%) gấp 1,3 lần tốc độ tăng thu nhập bình quân của quý II/2023 (đạt 5,4%).
Quý II/2024, thu nhập bình quân tháng của lao động tăng lên ở hầu hết ngành kinh tế so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành ghi nhận tốc độ tăng thu nhập bình quân khá như: Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải là 9,1 triệu đồng, tăng 17,4%, tương ứng tăng 1,3 triệu đồng; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước là 11,2 triệu đồng, tăng 15,2%, tương ứng tăng 1,5 triệu đồng; khai khoáng là 11,3 triệu đồng, tăng 12,5%, tương ứng tăng 1,3 triệu đồng; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm là 12,4 triệu đồng, tăng 10,6%, tương ứng tăng 1,2 triệu đồng; hoạt động kinh doanh bất động sản là 11,2 triệu đồng, tăng 6,9%, tương ứng tăng 721 nghìn đồng.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, thu nhập bình quân tháng của người lao động là 7,5 triệu đồng, tăng 7,4%, tương ứng tăng 519 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2023. Lao động làm việc trong một số ngành kinh tế có tốc độ tăng thu nhập bình quân khá hơn với cùng kỳ năm trước: Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước là 11,2 triệu đồng, tăng 13,9%, tương ứng tăng 1,4 triệu đồng; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải là 9,0 triệu đồng, tăng 12,3%, tương ứng tăng 981 nghìn đồng; ngành hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm là 12,7 triệu đồng, tăng 11,7%, tương ứng tăng 1,3 triệu đồng; ngành hoạt động kinh doanh bất động sản là 11,7 triệu đồng, tăng 11,1%, tương ứng tăng 1,2 triệu đồng; ngành khai khoáng là 11,0 triệu đồng, tăng 8,5%, tương ứng tăng 866 nghìn đồng.
Thị trường lao động vẫn duy trì tăng trưởng việc làm ở mức trung bình trong dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp gần như không thay đổi.
Những điểm hạn chế tác động đến năng suất lao động: Chất lượng cung lao động vẫn còn bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập (khoảng hơn 70% lao động chưa qua đào tạo từ sơ cấp trở lên), phản ánh thách thức lớn mà thị trường lao động Việt Nam đang phải đối mặt. Điều này không chỉ cho thấy nhu cầu cần thiết trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà còn cả sự cấp thiết trong việc mở rộng cơ hội đào tạo và cấp bằng chuyên môn, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế hiện đại.
Thị trường lao động chưa có sự cải thiện nhiều về chất lượng lao động khi số lao động phi chính thức làm các công việc bấp bênh, thiếu tính ổn định vẫn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng hơn ba phần năm tổng số lao động có việc làm của cả nước. Số lao động có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản) quý II/2024 là 33,5 triệu người, chiếm 65,2% trong tổng số lao động có việc làm và tăng 271,7 nghìn người so với quý trước và tăng 210,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, số lao động phi chính thức là 33,4 triệu người, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 65%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2023. Mặc dù tình hình kinh tế – xã hội đã khởi sắc hơn, số lao động có việc làm đã tăng so với cùng kỳ năm trước nhưng tỷ lệ lao động phi chính thức vẫn khá cao. Điều này cho thấy, thị trường lao động đã dần hồi phục nhưng chưa bền vững.
Tình hình doanh nghiệp khó khăn với bình quân một tháng có khoảng 18,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 6 tháng đầu năm là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp tăng lên trong quý này. Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý II/2024 khoảng 1,08 triệu người, tăng 24,2 nghìn người so với quý trước và tăng 4,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý II năm 2024 là 2,29%, tăng 0,05 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,01 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, cả nước có khoảng 1,06 triệu người thất nghiệp trong độ tuổi lao động, tăng 4,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động 6 tháng đầu năm 2024 là 2,27%, không thay đổi so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi quý II năm 2024 tăng so với quý trước và không thay đổi so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý II/2024, hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều ngành, lĩnh vực đã khởi sắc nhưng vẫn còn khó khăn, doanh nghiệp đang đối mặt với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế chưa cao, thiếu ổn định, giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào tăng cao hơn giá hàng hóa đầu ra, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn… đã tác động đến tình trạng thiếu việc làm của người lao động. Cụ thể, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý II năm 2024 khoảng 948,0 nghìn người, tăng 15 nghìn người so với quý trước và tăng 7,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý này là 2,06%, tăng 0,03 điểm phần trăm so với quý trước và không thay đổi so với cùng kỳ năm trước, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực thành thị là 1,53% thấp hơn so với khu vực nông thôn (2,41%).
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tình trạng thiếu việc làm có xu hướng tăng lên, số người thiếu việc làm trong độ tuổi là 940,5 nghìn người, tăng 27,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi 6 tháng đầu năm 2024 là 2,05%, tăng 0,05 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn (tương ứng là 1,37% và 2,49%).
So với quý trước và cùng kỳ năm trước, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) tăng. Trong quý II năm 2024, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên từ 15-24 tuổi vẫn duy trì mức cao với 8,01%, tăng 0,02 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 10,19%, cao hơn 3,33 điểm phần trăm so với khu vực nông thôn. So với quý trước, tỷ lệ này tăng ở khu vực thành thị (tăng 0,01 điểm phần trăm) và giảm ở khu vực nông thôn (giảm 0,01 điểm phần trăm).
So với tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên luôn cao và gấp hơn 3 lần do đây là lực lượng trẻ, nhu cầu có việc làm cao hơn và bắt buộc tìm kiếm việc làm. Bên cạnh đó, thanh niên thường được trang bị các kiến thức tốt với trình độ cao nên họ có nhiều cơ hội lựa chọn công việc theo ý muốn hơn là làm các công việc tạm thời, thu nhập thấp. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 10,19%; khu vực nông thôn là 6,86%.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) 6 tháng đầu năm 2024 là 8%, tăng 0,49 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 10,18%, tăng 0,65 điểm phần trăm; khu vực nông thôn là 6,87%, tăng 0,4 điểm phần trăm.
Nam Dương