Giải pháp huy động nguồn lực phát triển chiếu sáng thông minh đô thị và hiệu quả năng lượng
Giải pháp huy động nguồn lực phát triển chiếu sáng thông minh đô thị và hiệu quả năng lượng
Hội thảo đánh giá phát triển chiếu sáng tại các đô thị chỉ ra các thuận lợi cũng như vướng mắc khó khăn để từ đó đề xuất các giải pháp và định hướng phát triển.
Ngày 9/5/2024, tại Khách sạn Melia Hà Nội, Cục Hạ tầng Kỹ thuật, Bộ Xây dựng và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tổ chức Hội thảo Báo cáo kết quả đánh giá thực trạng phát triển chiếu sáng đô thị quốc gia và tập huấn cơ sở dữ liệu chiếu sáng đô thị. Hội thảo diễn ra trong khuôn khổ Hỗ trợ kỹ thuật “Quỹ Quy hoạch đầu tư phát triển và xây dựng năng lực ngành năng lượng Đông Nam Á”.
Đánh giá thực trạng phát triển hệ thống chiếu sáng công cộng đô thị trên phạm vi toàn quốc, bà Nguyễn Thị Như Vân, Chuyên gia hiệu quả năng lượng và cơ sở dữ liệu (VETS) chia sẻ, hệ thống chiếu sáng đô thị Việt Nam đã đạt được những tiến bộ nhất định trong những năm qua. Cụ thể, hệ thống chiếu sáng tại các đô thị loại I, II, III đã được phủ sóng trên 90%, con số này ở các đô thị loại IV, V đạt khoảng 80%.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống chiếu sáng đô thị Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Tỉ lệ chiếu sáng trung bình của các đô thị còn thấp do thiếu quy hoạch, kế hoạch phát triển cụ thể. Hệ thống chiếu sáng chưa được quan tâm đúng mức, đầu tư manh mún, tự phát, gây mất an toàn giao thông, an ninh khu vực và ảnh hưởng đến tiện nghi sinh hoạt của người dân. Tỉ lệ sử dụng đèn LED tại các đô thị còn thấp so với mục tiêu đề ra. Trong khi đó, tiềm năng sử dụng loại đèn tiết kiệm năng lượng này còn rất lớn.
Cùng nội dung trên, ông Dương Chí Công, Chuyên gia hiệu quả năng lượng (VETS) chia sẻ, một trong những thách thức lớn nhất của hệ thống chiếu sáng đô thị Việt Nam hiện nay là việc thiếu quy hoạch. Hiện chỉ có 3 đô thị là Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ đã lập quy hoạch chiếu sáng đô thị. Việc thiếu quy hoạch dẫn đến nhiều hệ quả tiêu cực như: Gia tăng sự khó kiểm soát chiếu sáng tư nhân, ô nhiễm ánh sáng và lãng phí năng lượng.
Bên cạnh đó, việc đầu tư phát triển chiếu sáng đô thị hiện nay chủ yếu theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm, nhưng hiệu quả còn hạn chế. Các địa phương cũng thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để huy động vốn đầu tư từ khu vực tư nhân.
Ông Nguyễn Đức Trung Kiên, Chuyên gia chính sách (VETS), cho biết lộ trình phát triển chung về chiếu sáng đô thị của các nước trên thế giới bao gồm 3 giai đoạn: LED hoá – Chiếu sáng thông minh – Phát triển chiếu sáng lấy con người làm trung tâm.
LED hóa: Thay thế các loại đèn chiếu sáng truyền thống bằng đèn LED tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường.
Chiếu sáng thông minh: Ứng dụng công nghệ thông tin và Internet vạn vật (IoT) để điều khiển hệ thống chiếu sáng một cách tự động và hiệu quả, tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng.
Phát triển chiếu sáng lấy con người làm trung tâm: Tập trung vào việc nâng cao chất lượng ánh sáng, đảm bảo an toàn và tạo ra môi trường chiếu sáng thoải mái, phù hợp với nhu cầu của con người.
Hệ thống chiếu sáng thông minh tập hợp tất cả các ưu điểm của công nghệ chiếu sáng LED, khả năng kết nối, thiết bị Internet vạn vật và nền tảng quản lý sử dụng trí thông minh nhân tạo (AI).
Đối với các vấn đề về thực trạng chiếu sáng đô thị ở Việt Nam, ông Kiên đề xuất 5 nhóm giải pháp: Quy hoạch và kế hoạch phát triển – Đầu tư phát triển – Cơ chế chính sách đầu tư – Nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ – Đào tạo phát triển nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế.
Trong đó, nhóm giải pháp số 3 về cơ chế chính sách đầu tư, ông Kiên đề xuất loại bỏ chính sách huy động vốn góp của người dân và nhà nước cùng thực hiện đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp. Nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách ưu đãi, khuyến khích hình thức đầu tư đối tác công tư (PPP).
Theo ông Nguyễn Đức Trung Kiên, tổng nhu cầu vốn đầu tư của chương trình đầu tư quốc gia về phát triển chiếu sáng đô thị (2026-2030) dự kiến khoảng 51.000 tỷ đồng. Trong đó, dự kiến nguồn vốn được phân bổ: 15-20% vốn ngân sách, 60% nguồn vốn vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, 20-25% nguồn vốn đầu tư theo mô hình ESCO (mời các công ty dịch vụ năng lượng, quỹ đầu tư tham gia đầu tư).
Trình bày về Giải pháp huy động nguồn lực phát triển chiếu sáng thông minh và hiệu quả năng lượng, ông Vũ Quang Đăng, Chuyên gia tư vấn năng lượng trong nước (ADB) đã công bố một thông tin quan trong từ các nghiên cứu trường hợp trên toàn cầu. cụ thể, hiệu quả năng lượng là một phương pháp hiệu quả để giảm chi phí năng lượng và vận hành, nâng cấp cơ sở hạ tầng công cộng.
Chi phí vốn đầu tư cao cho các công nghệ tiết kiệm năng lượng sẽ được bù đắp bằng việc giảm chi phí năng lượng và O&M (giảm chi phí vận hành và bảo trì) trong suốt thời gian của dự án. Ngoài ra việc này cũng giúp giảm phát thải thông qua các biện pháp can thiệp EE (mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050).
Chuyên gia tư vấn Vũ Quang Đăng cũng cho biết, hiện ở Việt Nam hai hình thức đầu tư được ưu tiên là quỹ cho cho dự án EE thông qua LDIF (quỹ đầu tư phát triển địa phương) và hình thức ESCO (Công ty dịch vụ năng lượng) công cộng.
Đại diện ADB đưa ra cách tiếp cận vốn và đơn vị này gọi là “Một ADB”. Cách tiếp cận này bao gồm phân tích đa ngành tổng hợp, hợp tác giữa các vốn vay có và không có bảo lãnh chính phủ và PPP, cũng như phối hợp giữa các hoạt động tri thức và tài chính.
Cách tiếp cận này sẽ tập trung và các tỉnh/thành phố khi ADB sẽ cung cấp một khoản vay có thể kèm theo các ưu đãi cho một tỉnh/ thành phố. “Một ADB” cũng tiếp cận đa ngành như giao thông, nông nghiệp, giáo dục.
Một cách tiếp cận khác của ADB là Policy-based loan (khoản vay dựa trên chính sách). Theo đó, các khoản vay này sẽ không gắn với các dự án hoặc lĩnh vực cụ thể mà nhằm mục đích hỗ trợ các mục tiêu phát triển và cải cách chính sách rộng hơn của cả quốc gia. ADB sẽ cung cấp khoản vay chính phủ cho chính phủ và hỗ trợ kỹ thuật cho chính phủ Việt Nam. Các khoản vay có thể áp dụng khi thuộc dự án ưu tiên, quan trọng quốc gia.
Lấy dẫn chứng cho cách tiếp cận trên, ông Đăng đưa ra trường hợp của Chính phủ Campuchia. Nước này đã vay gói dựa trên chính sách trị giá 50 triệu USD (40 triệu USD vay từ ADB, 10 triệu USD từ quỹ ACGF). Trong số này có 23 triệu USD đầu tư hỗ trợ chuyển đổi năng lượng.
Từ khoản vay này, Campuchia đã phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng pin nối lưới đầu tiên của nước này. Hệ thống chiếu sáng ở các tỉnh Kampot và Kep hiệu quả đã chứng minh và trình diễn tiết kiệm chi phí và lợi ích cho du lịch, an toàn công cộng. Thông qua cải cách chính sách, sản lượng điện tái tạo đến năm 2027 dự kiến sẽ tăng ít nhất 25% so với mức cơ bản vào năm 2021.
Đối với vấn đề vay vốn, đại diện ADB cho biết đơn vị này sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam, Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam nghiên cứu phát triển và tài trợ cho quỹ EE và SuperESCO (Công ty dịch vụ năng lượng lớn).
Phát biểu tại hội thảo với tư cách là đơn vị chủ trì, ông Ron Slangen, Phó Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam khẳng định: “ADB sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ Việt Nam và Bộ Xây dựng huy động nguồn tài chính xanh, tiếp cận các khoản vay ưu đãi, xây dựng quan hệ đối tác công tư và triển khai các giải pháp phù hợp để thực hiện chiến lược phát triển chiếu sáng đô thị quốc gia, góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững”.
Còn theo đơn vị đồng chủ trì, bà Đặng Anh Thư, Phó Cục trưởng Cục Hạ tầng Kỹ thuật, Bộ Xây dựng cho biết: Cục Hạ tầng kỹ thuật đánh giá cao sự hỗ trợ của ADB trong việc hiện đại hóa hệ thống chiếu sáng đô thị tại Việt Nam. Việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến sẽ góp phần nâng cao hiệu quả năng lượng, đảm bảo an toàn và cải thiện điều kiện sinh hoạt cho người dân. Chiếu sáng chất lượng cao cũng sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo dựng hình ảnh đô thị sôi động và hấp dẫn, góp phần thực hiện cam kết Net Zero của Việt Nam vào năm 2050”.
Tính đến năm 2023, Việt Nam có hơn 2 triệu đèn chiếu sáng, trong đó hơn 40% là đèn LED, với tổng chiều dài hệ thống chiếu sáng đạt khoảng 98 nghìn km và công suất lắp đặt 217 MW. Việc chuyển đổi sang sử dụng đèn LED và áp dụng các công nghệ chiếu sáng thông minh, tiết kiệm năng lượng có tiềm năng giúp Việt Nam tiết kiệm 3,5 triệu MWh điện năng, tương đương 8 nghìn tỷ đồng và 2 triệu tấn CO2 trong giai đoạn từ 2024 đến 2030.
Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị