Bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Sự cần thiết phải bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

tm-img-alt
Ảnh minh hoạ. Nguồn: internet

1. Khái niệm và sự cần thiết phải bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1.1. Khái niệm quyền con người và sự bảo đảm, bảo vệ quyền con người

Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó, có nhiều khái niệm khác nhau, mỗi khái niệm tiếp cận vấn đề từ một khía cạnh nhất định, chỉ ra những đặc điểm nhất định nhưng không khái niệm nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Tính phù hợp của các khái niệm hiện có phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, ở góc độ khái quát nhất, quyền con người có thể được hiểu là các quyền tự nhiên hoặc các quyền pháp lý.

Dưới góc độ các quyền tự nhiên, quyền con người là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ.[1]

Dưới góc độ là các quyền pháp lý, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.[2] Bên cạnh đó, một số học giả khác theo học thuyết về các quyền tự nhiên cũng đưa ra cách hiểu, quan niệm về quyền con người, theo đó, quyền con người là những sự được phép mà tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người.[3]

Ở Việt Nam, cũng tồn tại một số định nghĩa về quyền con người. Trong đó, một cách khái quát, quyền con người được hiểu là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người.[4] Quan niệm nêu trên của các học giả Việt Nam cho thấy sự ảnh hưởng của các học thuyết về quyền tự nhiên trên thế giới, vì vậy, quyền con người chính là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.

Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định nhưng quyền con người luôn được xác định là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử. Đó là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực cùa cá nhân với tư cách là một con người.

Bên cạnh đó, thuật ngữ “bảo đảm” có thể hiểu là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết hoặc sự bảo đảm thực hiện được hoặc giữ được. Trong khi “bảo vệ” được hiểu là chống lại sự xâm phạm để giữ lại cho luôn luôn được nguyên vẹn.[5] Như vậy, bảo đảm và bảo vệ là hai khái niệm khác nhau nhưng nội hàm của chúng có những điểm tương đồng, bổ trợ cho nhau, vì vậy, trong thực tế người ta hay sử dụng chúng đi liền với nhau hoặc thay thế cho nhau. Theo đó, các thuật ngữ “bảo đảm, bảo vệ” hàm chỉ các yếu tố – công cụ được sử dụng nhằm làm cho chắc chắn thực hiện được, chống lại sự xâm phạm để giữ gìn một cách trọn vẹn sự vật, hiện tượng nào đó.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Bảo đảm, bảo vệ quyền con người là việc sử dụng các công cụ cũng như yếu tố tác động nhằm làm cho quyền con người chắc chắn được thực hiện, đồng thời, chống lại mọi âm mưu xâm phạm quyền con người; mục đích cuối cùng là quyền con người phải được thừa nhận, thực hiện với đúng tính chất, nội hàm vốn có của nó. Theo đó, việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người có một số điểm đặc thù sau: (i) Chủ thể của hoạt động bảo đảm, bảo vệ quyền con người khá rộng, không chỉ là Nhà nước mà bao gồm tất cả các cá nhân, tổ chức trong xã hội, thậm chí tổ chức quốc tế cũng có thể cùng tham gia. (ii) Bảo đảm, bảo vệ quyền con người phải được thực hiện thông qua hệ thống thể chế – công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội. (iii) Việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở mỗi quốc gia luôn chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế, xu hướng dân chủ – yêu chuộng hòa bình, bối cảnh xây dựng – hoàn thiện Nhà nước pháp quyền…

1.2. Sự cần thiết phải bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu tất yếu của việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong xã hội dân chủ, hiện đại và văn minh

Quyền con người dù quan niệm ở góc độ là quyền tự nhiên, vốn có của con người hay quan niệm dưới góc độ pháp lý gắn với sự thừa nhận của Nhà nước thì đều cần được bảo đảm trong thực tế. Thực tiễn nhu cầu của việc bảo đảm quyền con người trong mỗi thời kỳ lịch sử cũng như ở các quốc gia khác nhau thì không hoàn toàn giống nhau do chịu sự chi phối, tác động bởi nhiều yếu tố như sự phát triển của nền kinh tế, yếu tố xã hội, trình độ nhận thức, xu hướng phát triển của nền dân chủ…

Trong thời kỳ xã hội chưa có giai cấp – xã hội cộng sản nguyên thủy, khi kinh tế còn thấp kém cùng với tổ chức xã hội còn giản đơn, mối quan hệ giữa con người với nhau tương đối thuần nhất, các mâu thuẫn trong xã hội gần như không có hoặc không đáng kể, với điều kiện kinh tế – xã hội lúc bấy giờ, có lẽ con người cũng chưa ý thức được về “quyền” và nhu cầu bảo đảm quyền con người gần như chưa đặt ra.

Chuyển sang giai đoạn xã hội có giai cấp, phân hóa và mâu thuẫn xã hội xuất hiện, khi đó hiện tượng người áp bức, bóc lột người xảy ra với những mức độ khác nhau của những thời kỳ lịch sử, quốc gia khác nhau. Cùng với đó, nhận thức của con người trong xã hội cũng ngày càng phát triển, nhu cầu được thừa nhận và thụ hưởng những quyền sinh ra vốn có – quyền con người bắt đầu xuất hiện. Khi kinh tế – xã hội phát triển, xu hướng của nền dân chủ trên thế giới gia tăng dẫn tới nhu cầu của việc bảo đảm các quyền vốn có đó đặt ra và trở thành tất yếu trong xã hội phát triển.

Thứ hai, xuất phát từ bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Có thể thấy, xuất phát từ đòi hỏi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một nhu cầu tất yếu và “sự đòi hỏi cần phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không phải là ý muốn kỳ quặc của ai đó mà là mệnh lệnh khách quan của thời đại”.[6] Vì vậy, thuật ngữ Nhà nước pháp quyền đã xuất hiện trong các văn kiện chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Từ Đại hội X (năm 2006) của Đảng, Việt Nam đã chính thức coi “Nhà nước pháp quyền” là một trong số các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa với hàm ý Việt Nam sẽ không có xã hội chủ nghĩa nếu như không có Nhà nước pháp quyền. Vấn đề Nhà nước pháp quyền tiếp tục được ghi nhận Hiến pháp năm 2013.

Theo các quy định của Hiến pháp năm 2013, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần có những đặc điểm cơ bản sau: (i) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân. (ii) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. (iii) Nhà nước thừa nhận quyền con người là quyền tự nhiên, vốn có của con người, Nhà nước có trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. (iv) Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, tuân thủ các cam kết quốc tế. (v) Hiến pháp có vị trí tối thượng trong hệ thống pháp luật. Mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với Hiến pháp và mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều phải bị xử lý. (vi) Nhà nước Việt Nam luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Một số giải pháp cơ bản bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thứ nhất, tiếp tục kiên định lập trường tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề bảo đảm và thúc đẩy quyền con người và không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Những quan điểm cơ bản về quyền con người là: (i) Quyền con người là giá trị chung của nhân loại; (ii) Quyền con người, về bản chất không có tính giai cấp, nhưng trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm về quyền con người mang tính giai cấp; (iii) Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia; (iv) Quyền con người là mục tiêu, bản chất, động lực của chế độ xã hội chủ nghĩa; (v) Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân kết hợp hài hòa với quyền tập thể và không tách rời nghĩa vụ, trách nhiệm công dân; (vi) Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật; trách nhiệm của Nhà nước, của tất cả các ngành, các địa phương, cơ sở là phải tích cực, chủ động thực hiện nhằm ngày càng hoàn thiện và nâng cao các quyền con người; (vii) Chủ động, tích cực hợp tác, đồng thời sẵn sàng đối thoại và kiên quyết đấu tranh trong quan hệ quốc tế vì quyền con người.

Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo trên, Đảng cần tiếp tục cụ thể hóa thông qua các chủ trương, chính sách phát triển đất nước trong các lĩnh vực của đời sống; Nhà nước cần chi tiết hóa thông qua việc đưa ra các chính sách và đặc biệt là các quy định pháp luật từ Hiến pháp đến các văn bản pháp luật khác để thể hiện quan điểm nhất quán trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam.

Thứ hai, nâng cao nhận thức của các chủ thể trong xã hội về quyền con người và việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người

Thực tiễn hiện nay, ở nước ta, nhận thức của một bộ phận người dân về quyền con người còn khá hạn chế, đặc biệt là những người sống ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội hạn chế, mặt bằng dân trí chưa cao, họ chưa nhận thức hết được quyền mà sinh ra họ vốn được hưởng như quyền được tự do, quyền được bình đẳng, quyền được hưởng hạnh phúc… Đây chính là những cản trở trong việc thực hiện, bảo đảm quyền con người tại những vùng miền đó. Vì vậy, các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong xã hội tại địa phương cần có những giải pháp để giúp họ nhận thức được về quyền con người thông qua các hoạt động như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục hoặc các buổi nói chuyện về quyền con người tại vùng miền đó với những phương thức đơn giản, gắn với cuộc sống của con người nơi đó.

Ngoài ra, với những trường hợp người dân đã nhận thức được về quyền con người nhưng nhu cầu bảo đảm với những quyền đó là thấp hoặc không có do chịu ảnh hưởng của tư duy lạc hậu, lỗi thời. Vì vậy, họ cam chịu, chấp nhận những gì xảy đến với họ như là “số phận đã định”, kể cả việc quyền con người của họ có thể bị xâm phạm nghiêm trọng… Trong những trường hợp này, cần có sự tuyên truyền, giác ngộ để người dân thấy được sự cần thiết của việc bảo đảm quyền con người nói chung và của bản thân họ nói riêng, đồng thời, cung cấp cho họ những công cụ trợ giúp pháp lý để người dân có thể sử dụng bất kể khi nào họ cần.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý về quyền con người, bảo đảm và thúc đẩy thực hiện quyền con người.

Cần tiếp tục nghiên cứu để có những sửa đổi, bổ sung hệ thống các quy định pháp luật về quyền con người để bảo đảm quyền con người được hiện thực hóa trong đời sống, đầu tiên đó là các quy định trong Hiến pháp – văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao nhất của một quốc gia.

Chẳng hạn, cần nghiên cứu để bảo đảm sự phù hợp giữa quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 về việc hạn chế quyền con người với quy định trong các điều ước, công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Theo Hiến pháp năm 2013: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng”.

Trong khi quy định của hai công ước về quyền con người là ICCPR và ICESCR mà Việt Nam là thành viên cũng có hạn chế quyền con người trong một số trường hợp nhưng có loại trừ với những quyền tuyệt đối (không thể bị hạn chế trong bất kể trường hợp nào). Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, bổ sung một số quyền con người vào Hiến pháp như quyền không bị bắt làm nô lệ và nô dịch, quyền không bị bỏ tù vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, quyền được thừa nhận là thể nhân trước pháp luật, quyền đình công; đồng thời, mở rộng một số quyền công dân đã ghi nhận trong Hiến pháp trở thành quyền con người như quyền tự do đi lại, cư trú; quyền tự do lập hội, hội họp, biểu tình; quyền có nơi ở hợp pháp; quyền được quyết định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ…

Thứ tư, đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các thiết chế, trong đó quan trọng là Nhà nước bảo đảm thực hiện quyền con người hiệu quả và khả thi:

Một là, cần thiết nhấn mạnh vai trò lập pháp của Quốc hội: Với vai trò là cơ quan lập pháp, Quốc hội có nhiệm vụ cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về quyền con người thành các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trước hết, ưu tiên xây dựng các đạo luật về quyền con người, tạo cơ sở pháp lý để tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước và toàn xã hội.

Hai là, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ – cơ quan hành pháp theo hướng kiến tạo, phát triển, năng động và bảo đảm quyền con người. Theo đó, Chính phủ cần chủ động, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết về quyền con người và bảo đảm các quy định đó đi vào đời sống. Đồng thời, Chính phủ phải tổ chức hợp lý, khoa học việc thực hiện các quy định hướng dẫn về quyền con người; chú trọng việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con người, đặc biệt ở những vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Thêm vào đó, để bảo đảm việc tổ chức, thực hiện quy định pháp luật về quyền con người cần tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, thanh tra, xử lý các cá nhân, tổ chức vi phạm quy định pháp luật, xâm phạm quyền lợi của Nhà nước, của xã hội và của công dân, cá nhân trong xã hội.

Ba là, tăng tính độc lập của cơ quan tư pháp với mục đích: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”.[7] Thực tiễn cho thấy, hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước mà đặc biệt là Tòa án – cơ quan tư pháp ở Việt Nam hiện nay có ảnh hưởng lớn tới việc thực hiện, bảo đảm quyền con người hiện nay. Hệ thống tòa án có trách nhiệm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người nhưng nếu không đủ “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” rất dễ vi phạm quyền con người và có thể dẫn tới oan, sai. Hệ thống Tòa án – cơ quan tư pháp phải thực sự độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp mới là điều kiện quan trọng để bảo vệ công lý, bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, đẩy mạnh sự phối hợp giữa Nhà nước với các thiết chế xã hội khác; phát triển kinh tế bền vững, trở thành trụ cột quan trọng, đủ khả năng đáp ứng các điều kiện về vật chất – kỹ thuật – hạ tầng trong bảo vệ quyền con người; nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc hình thành thiết chế độc lập về nhân quyền và xem xét khả năng vận dụng ở Việt Nam trong tương lai… cũng là những giải pháp quan trọng cần làm.

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 198

[2] OHCHR, Freequently Asked Questinons on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, tr. 1

[3] Học viện Chính trị Quốc gia HCM, Quyền con người và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Văn phòng thường trực về nhân quyền, Hà Nội.

[4] Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, Hỏi đáp về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012, tr. 45.

[5] Ngôn ngữ Việt Nam – Nguyễn Quang, Minh Trí, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2013, tr. 61 – 63.

[6] Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, Nxb. Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr. 34

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2021, tr. 177.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 198

OHCHR, Freequently Asked Questinons on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, tr. 1.

Học viện Chính trị Quố gia HCM, Quyền con người và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Văn phòng thường trực về nhân quyền, Hà Nội.

Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, Hỏi đáp về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012, tr. 45.

Ngôn ngữ Việt Nam – Nguyễn Quang, Minh Trí, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2013, tr. 61 – 63.

Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, Nxb. Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr. 34

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2021, tr. 177.

TS. Đồng Thái Quang

Học viện Hậu cần, Bộ Quốc phòng

Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị

Bạn cũng có thể thích