Năng lực công nghệ – yếu tố quyết định phát triển công nghiệp bán dẫn
Ngành công nghiệp bán dẫn đang có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu, với quy mô thị trường toàn cầu đạt trên 520 tỷ USD năm 2023 và vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh. Trong hơn 30 năm qua, chuỗi giá trị của ngành công nghiệp bán dẫn đã được định hình và có hàng rào gia nhập cao, rất khó để các quốc gia đang phát triển có thể tham gia. Theo đánh giá của chuyên gia, Việt Nam là quốc gia có nhiều cơ hội và yếu tố cần thiết để phát triển hệ sinh thái ngành công nghiệp bán dẫn, có tiềm năng nâng cao vị trí trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu.
Ông Nguyễn Anh Thi, Trưởng Ban Quản lý Khu Công nghệ cao TP.HCM cho rằng, Việt Nam có tiềm năng tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu ngành vi mạch bán dẫn trong các công đoạn thiết kế và đóng gói. Theo ông Nguyễn Anh Thi, để phát triển ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn hay bất kỳ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nào thì năng lực công nghệ là yếu tố quyết định.
“Chúng ta không thể xây dựng nền công nghiệp vi mạch bán dẫn nếu không có năng lực nội sinh về công nghệ. Việc thu hút trực tiếp đầu tư nước ngoài là chưa đủ mà cần có các doanh nghiệp trong nước phát triển lĩnh vực này cũng như sự đầu tư vào nghiên cứu và phát triển”, ông Nguyễn Anh Thi nêu ý kiến.
Theo ông Nguyễn Anh Thi, việc thu hút FDI, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược, là giai đoạn đầu chúng ta xây dựng hệ sinh thái. Muốn thực hiện được điều này cần tập trung vào cơ chế chính sách hỗ trợ thực hiện việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực vi mạch bán dẫn thông qua khâu đào tạo nâng cao kỹ năng nhân lực thiết kế vi mạch bán dẫn theo nhu cầu doanh nghiệp.
PGS. TS. Nguyễn Anh Thi, Trưởng Ban Quản lý Khu Công nghệ cao TPHCM.
Tuy nhiên, việc đào tạo nhân lực chuyên sâu, trình độ cao về bán dẫn thì không thể tách rời nghiên cứu. Vì vậy, bên cạnh sự vào cuộc của Bộ GD&ĐT, các trường đại học thì sự đầu tư của Bộ KH&CN cho hoạt động nghiên cứu có vai trò quan trọng.
Ông Nguyễn Anh Thi cũng dẫn kinh nghiệm của Đài Loan (Trung Quốc) là ví dụ sinh động về trường hợp một vùng lãnh thổ có xuất phát điểm thấp về công nghệ cao đã xây dựng thành công ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn.
Theo đó, ba trụ cột chính giúp Đài Loan xây dựng thành công ngành vi mạch bán dẫn bao gồm: Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực bán dẫn (thành lập Viện ITRI); chuyển giao công nghệ từ nước ngoài (từ một công ty Hoa Kỳ với công nghệ không phải tiên tiến nhưng đã tiếp thu và sáng tạo công nghệ, chuyển giao cho khu vực tư nhân để sử dụng); phát triển hạ tầng công nghiệp phục vụ cho ngành công nghiệp (thành lập Khu Công nghệ cao Tân Trúc).
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Cương Hoàng, Trưởng Ban Công nghệ bán dẫn, Tập đoàn Viettel dẫn dự báo của Bộ TT&TT về quy mô ngành bán dẫn tại Việt Nam đến năm 2030 ước đạt 20-30 tỷ USD, nhưng chỉ mới có 2 doanh nghiệp nội là FPT và Viettel tham gia thị trường này ở công đoạn đầu tiên.
Ông Nguyễn Cương Hoàng cho biết, Viettel đã bắt đầu tham gia vào hoạt động nghiên cứu thiết kế chip từ năm 2019, đến nay đạt được một số kết quả cụ thể như: Hoàn thành chế tạo chip tiền xử lý tín hiệu số (Digital Front-end) cho trạm thu phát sóng 5G; hoàn thành chế tạo chip thu phát cao tần (RFIC) cho 5G và các hệ thống thông tin vô tuyến khác…
Để nắm bắt cơ hội phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam, ông Nguyễn Cương Hoàng đề xuất Nhà nước cần đẩy mạnh đầu tư vào nghiên cứu, phát triển công nghệ bán dẫn; thiết lập các trung tâm nghiên cứu công nghệ cao và hỗ trợ tài chính cho các dự án nghiên cứu phát triển; ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng và logistics để hỗ trợ ngành công nghệ bán dẫn; xây dựng và thực thi chính sách ưu đãi thuế, cung cấp các gói tài chính ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực bán dẫn…
Các doanh nghiệp trong nước cũng cần đẩy mạnh đầu tư cho hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ mới, công nghệ cho ngành công nghiệp phụ trợ để đón đầu xu hướng, tăng khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp trong khu vực; xây dựng mối quan hệ hợp tác với các trường đại học và viện nghiên cứu để tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu từ phòng lab tới thực tiễn; đồng thời tìm kiếm cơ hội hợp tác và chuyển giao công nghệ với các đối tác quốc tế để nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý.
Bảo Lâm