‘Hồi sinh’ các dòng sông vì tương lai Thủ đô

‘Hồi sinh’ các dòng sông vì tương lai Thủ đô

Tất cả chúng ta hẳn còn nhớ, cách đây hơn 20 năm, khi nói về kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè (chảy qua các quận 1, 3, Tân Bình, Phú Nhuận, Bình Thạnh).

Ai cũng biết đó là con kênh ô nhiễm bậc nhất TP.HCM với dòng nước đen đặc. Thế nhưng, với quyết tâm thay đổi, từ năm 2002, Dự án cải tạo vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè đã được thực hiện. Sau gần 10 năm triển khai, tháng 8-2012, công trình này đã khánh thành, đánh dấu sự ‘hồi sinh’ của dòng kênh suốt bao nhiêu năm ‘chết chìm’ trong rác. Liệu Hà Nội có thể rút ra bài học gì từ chính câu chuyện này (?!).

tm-img-alt
PGS.TS Đào Trọng Tứ, Trưởng ban điều hành Mạng lưới sông ngòi Việt Nam 

Trong quá trình đi tìm hiểu về lịch sử, văn hóa và các phương án nhằm hồi sinh lại các con sông nội đô Hà Nội, chúng tôi có thời gian lắng nghe những trăn trở, tâm huyết của nhiều nhà khoa học. Đặc biệt, GS.TS Trần Đức Hạ, giảng viên cao cấp trường Đại học Xây dựng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu cấp thoát nước và môi trường, Hội Cấp thoát nước Việt Nam và PGS.TS Đào Trọng Tứ, Trưởng ban Điều hành Mạng lưới sông ngòi Việt Nam đã kể nhiều câu chuyện ngoài “sách vở” và kết luận: “Thăng Long đã lớn lên quanh những dòng sông từ lâu. Chính sông hồ đã cưu mang kinh đô từ những ngày còn trứng nước. Vì thế, cải tạo và hồi sinh chúng cần phải được ưu tiên hàng đầu. Để sông ngòi của Hà Nội phải “chết” là chúng ta có tội”. Từ tính cấp thiết của vấn đề, GS.TS Trần Đức Hạ và PGS.TS Đào Trọng Tứ đã đóng góp thêm tiếng nói khoa học phản bác ý tưởng cống hóa dòng nước; đánh giá tính khả thi và kiến nghị các giải pháp góp phần phục hồi các con sông nội đô Hà Nội.

tm-img-alt
Đoạn giao cắt giữa sông Tô Lịch và sông Lừ với màu đen đặc trưng chảy qua khu Linh Đàm

“Sài Gòn làm được, Hà Nội cũng làm được”

Đó là khẳng định của PGS.TS Đào Trọng Tứ, Trưởng ban Điều hành Mạng lưới sông ngòi Việt Nam khi ông nhắc lại một cách có chủ ý câu chuyện cải tạo kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè (giai đoạn 1) tại TP.HCM. Nước con kênh bây giờ đã xanh trở lại, cá tung tăng bơi lội. Hơn 1,2 triệu người sống xung quanh lưu vực kênh có hệ thống thu gom nước thải tập trung, trực tiếp được hưởng lợi thông qua cải tạo điều kiện vệ sinh, giảm nguy cơ ngập lụt. Đêm đêm, ánh đèn dưới chân cầu soi rõ màu nước trong, người dân thong dong tản bộ 2 bên bờ hóng mát, quán xá đông đúc. Dự án đã cải thiện đáng kể tình trạng ngập úng, ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe, môi trường sống cư dân 7 quận, góp phần thực hiện chủ trương chỉnh trang đô thị, tạo môi trường sống xanh – sạch – đẹp – hiện đại – văn minh.

Sau giai đoạn 1, TP.HCM đang triển khai giai đoạn 2 dự án cải tạo vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè với mục tiêu xử lý nguồn nước thải sinh hoạt trước khi thải ra môi trường; khôi phục và bảo tồn hệ sinh thái sông Sài Gòn và lưu vực hạ lưu sông Đồng Nai cũng như cải tạo, chỉnh trang đô thị, nâng cao chất lượng môi trường và đảm bảo sức khỏe cho người dân. Ngoài việc phục hồi lại kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, TP.HCM còn cải tạo thành công kênh Tân Hóa – Lò Gốm, đạt mục tiêu nâng cao điều kiện sống cho hơn 1 triệu dân dọc 2 bờ kênh vốn ô nhiễm trầm trọng. Giá trị đất đai, nhà cửa cũng nhờ đó được tăng cao, tình trạng bệnh tật được đẩy lùi, phúc lợi công cộng, an sinh xã hội, diện mạo khu vực thay đổi tích cực một cách rõ rệt.

Dự án cải tạo kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè thực hiện đúng các nguyên tắc chuyển các dòng nước thải xuống cống bao đến nhà máy xử lý tập trung rồi bịt kín các miệng xả, sau đó nạo vét xuống đến cao trình nhằm tạo đủ công suất thoát nước cho dòng kênh – đó là những nguyên tắc cơ bản mà giới chuyên môn về thoát nước và vệ sinh môi trường đều hiểu rõ và thực hiện được, tức là áp dụng tất cả nội lực chứ không cần du nhập công nghệ xa lạ nào từ bên ngoài. Công trình tách dòng là thiết kế độc đáo được áp dụng ở TP.HCM lần đầu trong dự án này rồi sau đó được triển khai ở Đà Nẵng và kế đó là dự án kênh Tân Hóa – Lò Gốm.

tm-img-alt
Bảo vệ sông hồ Hà Nội là trách nhiệm của tất cả mọi người

Giải pháp phục hồi

Theo PGS.TS Đào Trọng Tứ, để có thể “hồi sinh” các con sông nội đô Hà Nội, trước tiên cần xác định nguyên nhân gây ô nhiễm từ nguồn thải, loại và số lượng nước thải để từ đó đưa ra các giải pháp khác nhau, khả thi và phù hợp với từng giai đoạn về nguồn lực thì mới bảo đảm thành công. Bên cạnh đó, vấn đề chính sách cần được các cơ quan có trách nhiệm thực hiện đồng bộ, nghiêm túc thì mới bảo đảm hiệu quả. Cụ thể, phải kiên quyết trong xử lý các vi phạm về bảo vệ môi trường, đẩy mạnh việc tuân thủ chấp hành Luật Bảo vệ môi trường trong các doanh nghiệp, di dời các cơ sở gây ô nhiễm không phù hợp quy hoạch.

Thắt chặt quy chuẩn nước thải nhằm quản lý và kiểm soát nước thải phát sinh từ hoạt động sản xuất công nghiệp. Tăng cường kiểm soát ô nhiễm và đầu tư xây dựng các trạm xử lý nước thải công nghiệp tập trung. Yêu cầu các khu công nghiệp, cụm công nghiệp phải có hệ thống thu gom xử lý nước thải theo đúng quy định. Quy hoạch xử lý nước thải sinh hoạt và triển khai đầu tư các trạm xử lý nước thải tập trung của thành phố.

– Đối với sông Nhuệ, cần xây dựng các công trình lấy nước trực tiếp từ sông Đáy, sông Hồng để bổ sung nguồn nước sạch, tránh nước tù đọng và duy trì dòng chảy thường xuyên. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng cụm công trình đầu mối Liên Mạc để tiếp thêm nguồn cho sông Tô Lịch cấp đủ nước và duy trì dòng chảy tối thiểu trên hệ thống. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung Yên Xá, Phú Đô và hệ thống cống thu gom nước thải. Không xả nước thải từ đập Thanh Liệt vào sông Nhuệ mà đưa toàn bộ nước thải xuống trạm bơm Yên Sở xử lý trước khi chảy ra môi trường.

– Đối với sông Tô Lịch, đã có rất nhiều phương án bổ cập nước được nghiên cứu như phương án lấy nước sông Hồng bơm vào hồ Tây và xả qua cống Xa La và cống Đõ, hay phương án bơm nước sông Hồng vào hệ thống kênh tưới Xuân Đỉnh sau đó dẫn vào sông Tô Lịch. Tuy nhiên ở đây mới đề cập đến giải pháp bổ cập nước mà chưa đề cập đến giải pháp khôi phục dòng chảy. Vì vậy, cần khôi phục dòng chảy sông Thiên Phù (là đoạn sông trước đây chảy giữa làng Phú Xá và Nhật Tân qua Xuân La, có một nhánh chảy qua chùa Bái Ân, đến Yên Thái thì nối vào sông Tô Lịch) bằng giải pháp lấy nước từ sông Hồng qua trạm bơm đặt ở cuối ngõ 464 Âu Cơ. Nước sông Hồng sau khi được lắng sơ bộ, sẽ được bơm theo đường ống (theo ngõ 464 Âu Cơ, qua đê, đường Lạc Long Quân) và đổ vào thượng lưu sông Tô Lịch.

Hiện nay, hệ thống cống bao và giếng tách nước thải đang được xây dựng dọc sông Tô Lịch nhằm ngăn chặn nước thải chảy vào sông. Tuy nhiên, khi lượng nước mưa và nước thải trộn lẫn đạt lưu lượng lớn hơn 3 lần lưu lượng nước thải thì hỗn hợp nước này sẽ chảy vào sông Tô Lịch. Như vậy, để khôi phục và duy trì chất lượng nước của sông đạt tiêu chí về môi trường, cảnh quan thì mặt cắt của sông hiện nay cần được cải tạo cho phù hợp. Mặt cắt của sông sẽ được bổ sung 2 tuyến cống hộp chạy dọc 2 bên để thoát hỗn hợp nước thải và nước mưa, khi lưu lượng hỗn hợp nước này có độ pha loãng đạt tiêu chuẩn nước sạch phục vụ vui chơi giải trí thì nó sẽ được chảy vào tuyến sông hở nằm ở giữa qua cửa cổng rào cản có cánh được bố trí dọc theo tuyến.

– Đối với sông Kim Ngưu, Lừ và Sét, cần xác định được mặt cắt thoát lũ, đảm bảo thoát nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Xác định được quy mô đô thị ven bờ phù hợp với cảnh quan đô thị, hài hòa và thân thiện với môi trường. Phải giải quyết triệt để ô nhiễm theo hướng tách nước thải, không đổ thải vào sông và có nguồn nước sạch cho sông. Nguồn nước đưa vào là sông Hồng (tại bến Phà Đen) với giải pháp công nghệ bơm cột nước cao. Đường ống áp lực có 1 nhánh kết nối lưu giữ vào hồ Bảy Mẫu, lượng nước cấp cho sông Sét bằng cống xả hồ Bảy Mẫu và vào cống ngầm lòng đường Trần Đại Nghĩa, cửa ra là đầu sông lộ thiên gần nhà 142 Trần Đại Nghĩa và một nhánh ống kết nối lưu giữ vào hồ Thanh Nhàn, từ hồ Thanh Nhàn đổ vào sông Kim Ngưu bằng cống xả hồ Thanh Nhàn.

Trước mắt cần nâng cấp hoàn chỉnh hệ thống các hố ga trước các cống phía thượng lưu đổ vào sông Kim Ngưu và sông Sét. Tất cả các cửa cống từ các đường ngõ đổ ra sông Kim Ngưu, sông Lừ và sông Sét cần có hố ga, lưới chắn, dễ mở nắp để vớt rác thải, không cho rác theo cửa sông ra dòng sông và xử lý chất thải… Kiểm tra toàn bộ hệ thống xả thải và xử lý ô nhiễm tại các bệnh viện như Bệnh viện Thanh Nhàn, Bạch Mai, Bưu Điện, Việt Xô, 108, 103, Đống Đa, Nội tiết, Ung bướu (cơ sở 2) và các trường đại học: Bách khoa, Kinh tế Quốc dân, Xây dựng… Xây dựng lịch trình nạo vét hàng năm trên các con sông.

Cải tạo sông phải đặt trong quy hoạch tổng thể liên kết ngành

Trong thời gian tới, những thách thức và áp lực đối với môi trường của các con sông nội đô sẽ ngày càng phức tạp do quá trình đô thị hóa. Vấn đề này sẽ làm nảy sinh các tác động đến môi trường nước mặt là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, những mâu thuẫn trong việc lựa chọn giữa lợi ích trước mắt và lâu dài là vấn đề cần đặc biệt quan tâm trong việc đề xuất các chính sách phát triển của thành phố và tập trung các nguồn lực cho phát triển của Thủ đô để có hướng đi đúng đắn cho sự phát triển bền vững.

Các dòng sông nội đô đã bị ô nhiễm trở thành những “dòng sông chết” buộc phải cải tạo thay đổi theo hướng xem xét toàn diện nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Các giải pháp cải tạo sông nội đô phải đặt trong quy hoạch tổng thể liên kết với các ngành khác như: tiêu thoát lũ, cấp nước, phát triển không gian và bảo vệ môi trường, các yếu tố cảnh quan, lịch sử, địa lý, văn hóa, tâm linh. Do đó, để giải quyết vấn đề ô nhiễm và khôi phục các sông nội đô cần dựa trên các nguyên tắc tổng hợp và đồng bộ, tức là giải quyết các vấn đề ô nhiễm nước, môi trường nước phải kết hợp với các giải pháp bổ cập nguồn nước. Phải xem xét tới quy luật vận động của dòng chảy và tự nhiên với phạm vi ảnh hưởng của các hệ thống sông khác. Các giải pháp cần xét tới nhu cầu, mong muốn người dân.

Việc nghiên cứu cải tạo, khôi phục các sông nội đô Hà Nội rất phức tạp, có liên quan đến hệ thống sông lớn như sông Đà, sông Hồng, phạm vi lại rộng nên hiện tại khó có một cơ quan nào có đủ các yêu cầu để nghiên cứu độc lập. Vì vậy, việc nghiên cứu cần được tổ chức thông qua cơ chế phối kết hợp với nhau, kết hợp giữa các giải pháp công trình và phi công trình, giữa kỹ thuật và văn hóa.

5 bước để làm ‘”sống” lại các con sông

tm-img-alt
GS.TS Trần Đức Hạ, giảng viên cao cấp trường Đại học Xây dựng

Hà Nội hiện có 4 con sông nội đô đóng vai trò quan trọng đối với hệ thống thoát nước, sinh thái đô thị và gắn liền với chiều dài lịch sử văn hóa. Đáng tiếc, chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, tỉ lệ nghịch với sự phát triển mạnh mẽ của đô thị, những con sông này lại trở nên ô nhiễm trầm trọng. Tôi khẳng định rằng, vấn đề chính nằm ở việc thu gom và xử lý nước thải. Hệ thống thoát nước khu vực trung tâm Hà Nội là hệ thống cống chung, nước thải chưa được tách ra và chưa được xử lý xả vào 4 con sông này. Nhưng điều đó không có nghĩa là “bó tay bất lực”, chúng ta nhìn vào thực trạng để đưa ra giải pháp.

Tôi tập trung chính vào 2 con sông ô nhiễm trầm trọng nhất là Tô Lịch và Kim Ngưu. Hiện nay có 2 nhà máy xử lý nước thải lớn nhất Hà Nội là Nhà máy xử lý nước thải Yên Sở (lưu vực sông Kim Ngưu và sông Sét) hoạt động từ năm 2014 và Nhà máy xử lý nước thải Yên Xá (lưu vực sông Tô Lịch và sông Lừ) dự kiến đến năm 2024 sẽ đi vào vận hành. Trên cơ sở đó, tôi đề xuất 5 bước để làm sống lại các dòng sông:

– Bước đầu tiên, phải xây dựng các tuyến cống bao, tách và thu gom nước thải đưa về các nhà máy xử lý nước thải tập trung (Nhà máy xử lý nước thải Yên Xá và Nhà máy xử lý nước thải Yên Sở) để xử lý đảm bảo quy chuẩn môi trường rồi bổ cập trở lại cho sông. Đối với các điểm xả nước thải phân tán không thu gom được vào cống bao đưa về nhà máy xử lý tập trung thì cần có các giải pháp xử lý tại chỗ bằng các công trình và thiết bị phù hợp.

– Bước thứ 2, làm sạch và xử lý bùn lắng đọng trong sông, kè lại các đoạn bờ sông bằng các vật liệu sinh thái, tôn tạo các đoạn bờ sông phù hợp với cảnh quan và mục đích vui chơi giải trí khu vực…

– Bước thứ 3, tạo nên dòng chảy sinh thái về mùa khô từ nguồn bổ cập nước sạch là nước sông Hồng lưu lượng khoảng 5m3/s đối với sông Tô Lịch hoặc nước hồ Yên Sở (dung tích chứa nước trên 3 triệu m3) lưu lượng khoảng 4m3/s đối với sông Kim Ngưu. Các điểm bổ cập nước sạch tại đầu sông, tạo vận tốc khoảng 0,3 đến 0,5m/s cho dòng chảy sông, đảm bảo các điều kiện sinh thái cho sông cả về lưu lượng và chất lượng nước.

– Bước thứ 4, bố trí các công trình kiến trúc trên dòng sông như vòi phun nước, bè thực vật thủy sinh… có ý nghĩa vừa tạo cảnh quan để vui chơi, giải trí, vừa tăng cường quá trình tự làm sạch cho sông nhờ cung cấp thêm oxy hòa tan và tạo chế độ động trong sông…

– Bước thứ 5, vô cùng quan trọng đó là việc nâng cao ý thức của cộng đồng, người dân để cùng chung tay bảo vệ các dòng sông để từ đó cải thiện môi trường sinh thái, cảnh quan đô thị.

Nếu quyết liệt, đồng bộ các giải pháp này thì chúng ta hoàn toàn có thể phục hồi các con sông trong nội đô. Sông là mặt nước của đô thị, của Thủ đô Hà Nội. Vì vậy, chúng ta phải quyết tâm bằng mọi cách làm sống lại các dòng sông nội đô, bởi đó là lịch sử, văn hóa, gắn liền với di tích của Thủ đô và vì chính tương lai của Hà Nội. Trước đây, tôi cũng như các nhà sử học, các nhà văn hóa, các nhà khoa học… đã nhiều lần phản đối các ý tưởng giải quyết ô nhiễm môi trường nước Hà Nội bằng cách cống hóa, bê tông hóa các đoạn sông còn lại. Có những thời điểm chúng ta “lực bất tòng tâm”, nguồn lực còn hạn chế. Chúng ta nhìn thấy những giá trị sẽ mất đi do ưu tiên phát triển kinh tế, nay đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại và giữ lại những gì còn chưa mất. Xây dựng chế tài bảo vệ môi trường sông hồ cũng bởi vậy, có xử phạt, có khuyến khích động viên để thấy rõ bảo vệ sông hồ Hà Nội là trách nhiệm của tất cả mọi người, từ hệ thống chính quyền đến từng người dân.

Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị

Bạn cũng có thể thích