Xanh hóa môi trường khai thác mỏ

(Xây dựng) – Sắc xuân Giáp Thìn tắm mát đất trời, cây cối đơm hoa nầy lộc xanh tươi, phóng viên Báo điện tử Xây dựng có cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Điệp – Phó Giám đốc Trung tâm điều hành sản xuất của Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tại Quảng Ninh về các giải pháp thực hiện mục tiêu chuyển đổi xanh mà doanh nghiệp đang phổ biến “Xanh hóa môi trường khai thác mỏ”. Doanh nghiệp xanh Việt Nam, làm cho mùa xuân thêm xanh.

Xanh hóa môi trường khai thác mỏ
Ông Nguyễn Mạnh Điệp – Phó Giám đốc Trung tâm điều hành sản xuất của Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tại Quảng Ninh.

PV: Thưa ông Nguyễn Mạnh Điệp – Phó Giám đốc Trung tâm điều hành sản xuất của Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tại Quảng Ninh, đề nghị ông cho biết quan điểm của mình về phát triển kinh tế bền vững, sản xuất phải đi đôi với bảo vệ môi trường trong nghề khai thác than?

Ông Nguyễn Mạnh Điệp: Phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường, đã trở thành yêu cầu sống còn với mọi quốc gia. Trong quá trình xây dựng phát triển và trưởng thành Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam luôn coi công tác bảo vệ môi trường là yếu tố then chốt trong chiến lược phát triển bền vững của mình.

Qua 10 năm đổi mới, phát triển gắn với thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW Ban chấp hành Trung ương Đảng, Đảng ủy Tập đoàn CN Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) luôn xác định việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (BVMT) là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, góp phần phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng, đáp ứng nhiệm vụ phát triển và giữ vững an ninh năng lượng quốc gia.

Trên cơ sở định hướng trọng tâm đó, TKV đã chủ động và tích cực tham gia vào quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 (Net zero) vào năm 2050.

PV: Đề nghị ông cho biết cụ thể về một số giải pháp trọng tâm trong thời gian vừa qua và giai đoạn tới, nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế bền vững, sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường, giảm phát thải xấu ra môi trường?

Ông Nguyễn Mạnh Điệp: Tập đoàn công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam tại Quảng Ninh quán triệt Nghị quyết số 136/NQ của Chính phủ về phát triển biền vững, đã cụ thể hóa nghị quyết thành chương trình hành động gồm:

Giải pháp đổi mới công nghệ sản xuất

Đối với sản xuất và chế biến than: Chuyển dịch đầu tư đổi mới công nghệ khai thác theo hướng cơ giới hoá, thông minh hóa trong khai thác hầm lò (cột chống thuỷ lực, dàn chống thuỷ lực, máy khấu…), đầu tư đồng bộ thiết bị công suất lớn trong khai thác lộ thiên (máy xúc dung tích gầu xúc lớn 10 – 12 m3, ô tô tải trọng 90 – 100 tấn…) góp phần giảm tiêu hao gỗ chống lò, giảm tổn thất than, giảm phát sinh bụi, khí thải… Khâu sàng tuyển, chế biến than được đầu tư thiết bị lọc ép bùn công suất lớn để tăng tỷ lệ thu hồi, toàn bộ nước công nghệ được tuần hoàn tái sử dụng, không phát thải ra môi trường; Đầu tư hệ thống băng tải vận chuyển than ra cảng thay thế ô tô, hạn chế tối đa sự phát sinh bụi, ồn, khí thải; hệ thống biến tần điều khiển cho các thiết bị điện có công suất lớn để tiết kiệm điện; Tận thu, sử dụng hiệu quả tài nguyên thông qua chế biến sâu, triệt để các loại than chất lượng xấu ngoài tiêu chuẩn.

Đối với các nhà máy nhiệt điện, xi măng, tuyển quặng, luyện kim, alumin: Củng cố đảm bảo an toàn hồ đập chứa bùn đỏ, hồ thải quặng đuôi của các đơn vị khai thác khoáng sản, bauxit. Tro xỉ, bùn thải được thu gom và quản lý theo đúng quy định, đồng thời thực hiện nghiêm quy trình phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường đối với chất thải. Hệ thống xử lý khí thải, lọc bụi tĩnh điện được đầu tư đồng bộ cùng dây truyền sản xuất, kiểm soát tự động, liên tục đảm bảo tiêu chuẩn trước khi xả thải ra môi trường và được các cơ quan quản lý xác nhận trước khi đưa vào vận hành. Triển khai áp dụng Tiêu chuẩn ISO 14001 về Hệ thống quản lý môi trường cho các nhà máy để nâng cao hiệu quả quản lý, kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Nâng cao năng lực xử lý chất thải mỏ

Vận hành đồng bộ và hiệu quả các trạm xử lý nước thải mỏ với khối lượng xử lý hàng năm đạt trên 150 triệu m3, các trạm xử lý đều được lắp đặt hệ thống điều khiển liên động cùng với hệ thống quan trắc tự động liên tục để giám sát chất lượng nước thải được xử lý, đảm bảo toàn bộ nước thải mỏ được xử lý triệt để và đáp ứng tiêu chuẩn xả thải trước khi xả thải ra môi trường.

Duy trì tốt hoạt động của Nhà máy xử lý chất thải nguy hại công nghiệp của TKV tại Quảng Ninh, hàng năm xử lý trên 3.600 tấn chất thải nguy hại của các đơn vị thành viên, loại trừ nguy cơ sự cố môi trường do vận chuyển chất thải liên tỉnh, trong đó trên 50% sản phẩm sau xử lý được tái sử dụng cho sản xuất; tro xỉ nhiệt điện được tái sử dụng trên 27% tương ứng trên 600.000 m3/năm làm vật liệu xây dựng và san lấp nền, phần còn lại được quản lý, đổ thải theo đúng quy định; các loại chất thải khác phát sinh trong sản xuất đều được thu gom, xử lý theo đúng quy định.

Tăng cường các giải pháp bảo vệ môi trường thường xuyên

Thường xuyên tăng cường phun tưới nước dập bụi, vệ sinh môi trường; vận hành hiệu quả trên 110 thiết bị phun sương dập bụi cao áp cùng các loại xe tưới đường và hệ thống dập bụi khác, giảm thiểu tối đa sự phát thải của bụi ra môi trường xung quanh.

Chú trọng các giải pháp trồng cây phủ xanh cải tạo phục hồi môi trường và cảnh quanh. Tính đến hết năm 2023, toàn TKV đã trồng trên 2.000 ha, cùng với đó tổ chức có hiệu quả công tác chăm sóc và duy trì sự phát triển, tăng trưởng của cây trồng. Mỗi năm trồng mới từ 200 ÷ 250 ha (tương ứng trên 1 triệu cây xanh/năm), thúc đẩy cải thiện cảnh quan môi trường nơi sản xuất và làm việc, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “Xanh hóa môi trường khai thác mỏ”.

Xây dựng và triển khai kế hoạch hành động giảm nhẹ khí nhà kính (KNK)

Chủ động, tích cực và triển khai sớm việc tính toán, kiểm đếm phát thải, kiểm kê KNK, xây dựng và triển khai Kế hoạch hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, định hướng tới 2050, hướng tới mục tiêu đưa phát thải ròng của TKV về “0” vào năm 2050.

Tổ chức sớm việc rà soát, nâng cao hiệu quả hấp thụ của các bể hấp thụ KNK thông qua tăng cường công tác trồng cây phủ xanh các bãi thải, các vùng đất trống trên toàn bộ diện tích sản xuất. Thể chế hóa tiết kiệm năng lượng, chuyển từ tự giác mà không hiệu quả sang bắt buộc thực hiện; Thay thế các loại bóng đèn sợi đốt bằng đèn led, sử dụng các thiết bị có dán nhãn tiết kiệm năng lượng, sử dụng các thiết bị biến tần, khởi động mềm, tiết kiệm tài nguyên.

Chủ động trong thích ứng với biến đổi khí hậu

Định kỳ củng cố đê đập, nạo vét thường xuyên hố lắng trước đập để đảm bảo hiệu quả tích chứa đất đá trôi, ngăn chặn hiện tượng bồi lấp. Đặc biệt quan tâm đến hệ thống đập các hồ thải quặng đuôi sau tuyển; rà soát các thiết kế, kiểm tra thực tế để có các giải pháp điều chỉnh, đảm bảo an toàn; Đầu tư xây dựng bổ sung các đê, đập chắn đất đá chân bãi thải để tạo vành đai an toàn, phòng chống sạt lở, trôi trượt đất đá tại các bãi thải; đảm bảo các yêu cầu về BVMT đối với trên 150 triệu m3 đất đá thải/ năm theo các theo cam kết được phê duyệt tại ĐTM và CPM.

Ngoài ra, TKV luôn chú trọng việc tăng cường năng lực cho lực lượng PCTT tìm kiếm cứu nạn chuyên nghiệp & ứng phó sự cố môi trường, làm nòng cốt cho việc chỉ đạo phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng để chủ động ứng phó khi có tình huống cấp bách xảy ra.

Liên kết, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

Đẩy mạnh liên kết, hợp tác với các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nhằm tìm kiếm cơ hội đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực bảo vệ môi trường cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của TKV. Có thể kể đến chương trình hợp tác với Viện độc lập các vấn đề môi trường (UfU – CHLB Đức) để nghiên cứu trồng thử nghiệm cây năng lượng tại khu vực mỏ Tân Rai – LDA, phục vụ cho việc nghiên cứu sản xuất nhiên liệu sinh học); Phối hợp với NACAG (nhóm Hành động Khí hậu về Axit Ni-tơ-ric) trong nỗ lực mới nhằm khuyến khích sự chuyển đổi dài hạn ngành sản xuất axit nitric do Bộ Môi trường, Bảo tồn thiên nhiên và An toàn hạt nhân của Cộng hòa Liên bang Đức (BMU) thành lập nhằm hỗ trợ kỹ thuật về mặt công nghệ và tài chính liên quan cắt giảm N2O trong vận hành nhà máy Nitrat Amon Thái Bình -Tổng công ty Hóa chất mỏ-Vinacomin.

Triển khai mạnh mẽ và hoàn chỉnh việc chuyển đổi số doanh nghiệp để tăng hiệu quả quản lý và giám sát các công đoạn sản xuất, qua đó giúp tiết kiệm nguyên, nhiêu liệu và sử dụng năng lượng hiệu quả.

PV: Vâng! Cám ơn ông.

Nguồn: Báo xây dựng

Bạn cũng có thể thích