Vai trò và giải pháp phát triển kinh tế tập thể vùng Trung du miền núi phía Bắc

Vai trò và giải pháp phát triển kinh tế tập thể vùng Trung du miền núi phía Bắc

Kinh tế tập thể mà nòng cốt là kinh tế hợp tác xã (HTX) đã trở thành động lực phát triển kinh tế khu vực trung du và miền núi phía bắc.

Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ bao gồm 14 tỉnh trực tiếp nằm trong vùng và 21 huyện, 1 thị xã phía Tây của hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, có đường biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Thượng Lào, phía Đông giáp Đồng bằng sông Hồng, phía Nam giáp Bắc Trung bộ với tổng diện tích toàn vùng khoảng 116.898 km², chiếm 35% diện tích tự nhiên của cả nước. Đây là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước, là cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của quốc gia.

Đồng thời, cũng là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý hiếm và diện tích đồi rừng rộng lớn, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp cùng nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số để phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái.

Theo các chuyên gia kinh tế, mặc dù kinh tế của vùng có sự khởi sắc nhưng thực tế khu vực này vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước. Quy mô kinh tế vùng nhỏ, cơ cấu kinh tế chưa hiện đại, chuyển dịch chậm; phát triển của các địa phương trong vùng chưa đồng đều, hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng chế biến thô và gia công… Nhiều địa phương trong vùng vẫn lúng túng trong chọn hướng phát triển đột phá và phát huy thế mạnh liên kết. Để tiếp tục đưa các tỉnh trong vùng phát triển nhanh, bền vững, đòi hỏi sự năng động, sáng tạo của cấp ủy, chính quyền mỗi địa phương cùng với những chủ trương, chính sách, cơ chế phù hợp nhằm tạo sức bật mới toàn diện cho toàn khu vực.

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ, phát triển kinh tế – xã hội vùng Trung du và miền núi phía Bắc cần đưa ra một số giải pháp phát huy các nguồn lực của vùng, phát huy vai trò đầu tàu của những nhân tố năng động như doanh nghiệp khởi nghiệp quy mô vừa và nhỏ để dẫn dắt tiếp cận các mô hình mới. Đồng thời, khuyến khích sự thay đổi tích cực của người nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư trong cách nghĩ, cách làm, từ thói quen, tập quán sinh hoạt hàng ngày cho tới cách thức sản xuất, kinh doanh.

Đặc biệt liên quan đến việc phát triển kinh tế tập thể, HTX vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Theo đó tập trung phát triển nông nghiệp vùng Trung du và miền núi Bắc bộ theo hướng hàng hóa, sản xuất an toàn, sạch, hữu cơ, xanh, đặc sản, cần đến nguồn lực con người – sự tham gia tích cực của người nông dân, của đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư với vai trò chủ thể.

Kinh tế tập thể (KTTT), hợp tác xã (HTX) có tác động tích cực đối với phát triển nền kinh tế – xã hội và các địa phương của nước ta, từ đó góp phần vào việc cung ứng hàng hóa tiêu dùng nhằm ổn định giá cả thị trường, đóng góp tích cực vào tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững.

Xu hướng khách quan chung từ thực tiễn thế giới cho thấy KTTT và HTX ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong sự phát triển của kinh tế – xã hội.

tm-img-alt
Số lượng sản phẩm của HTX trong các loại hình được chứng nhận OCOP tăng, chiếm tỷ trọng cao so với tổng sản phẩm OCOP của địa phương. Ảnh: ITN

Tổng thư ký Liên hợp quốc đánh giá: “HTX là một trào lưu có tổ chức lớn nhất của xã hội văn minh, đóng góp quan trọng trong việc đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu của con người trong những nỗ lực phát triển kinh tế cân bằng sâu rộng ở các quốc gia nói riêng và thế giới nói chung”, “HTX là đối tác chính trong hệ thống của Liên hợp quốc, HTX là mô hình về tự trợ giúp và đoàn kết, đóng góp của HTX rất đặc biệt và vô giá”.

Tại Việt Nam, hiện nay, các HTX đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi vào những cánh đồng mẫu lớn, tạo ra sản phẩm nông nghiệp phục vụ trong nước và xuất khẩu. Đây là cơ sở quan trọng nhằm nâng cao trình độ sản xuất, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân từ đồng bằng đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và đóng góp vào thành công chung của đất nước trong thời gian qua.

Phát triển kinh tế hợp tác, HTX được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, như: Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX; Kết luận của Bộ Chính trị số 56-KL/TW ngày 21/2/2013; Luật Hợp tác xã năm 2012 và hệ thống các văn bản, nghị quyết liên quan. Đặc biệt, với vai trò là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt Nam (LMHTXVN) giúp cho Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam phát triển nền kinh tế tập thể ngày càng vững mạnh, đóng góp quan trọng vào nền tảng của nền kinh tế đất nước

Theo Báo cáo Liên minh HTX Việt Nam, tính đến thời điểm hiện tại, cả nước có 29.021 HTX, trong đó có 19.395 HTX nông nghiệp; 2.448 HTX công nghiệp – thủ công nghiệp (CN-TTCN); 2.329 HTX thương mại dịch vụ (TMDV); 1.662 HTX giao thông vận tải (GTVT); 877 HTX xây dựng; 554 HTX môi trường; 1.181 Quỹ tín dụng nhân dân (4,0%); 575 HTX lĩnh vực khác; có 123.241 THT trong đó chủ yếu vẫn là THT nông nghiệp với gần 60%, còn lại phân đều và rải rác cho các lĩnh vực khác.

Về liên hiệp hợp tác xã (LHHTX), năm 2022, cả nước thành lập mới 17 LHHTX, đều có phương án sản xuất, kinh doanh, liên kết chuỗi giá trị giữa các HTX, doanh nghiệp, chủ yếu là tiêu thụ sản phẩm. Các LHHTX thu hút 750 thành viên, tạo việc làm cho 39.750 lao động; doanh thu bình quân của 01 LHHTX là 258 tỷ đồng/năm, lãi bình quân 8,9 tỷ đồng/năm. 43% số LHHTX hoạt động hiệu quả, phát triển theo hướng liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa quy mô lớn của địa phương; tác động tích cực trong việc liên kết giữa các HTX thành viên với các doanh nghiệp, tập đoàn lớn; tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm của HTX thành viên.

HTX, LHHTX, THT nông nghiệp phục hồi, đẩy mạnh sản xuất, chế biến sâu, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi ; sản xuất tập trung và chuyên canh theo mô hình cánh đồng mẫu lớn , kết hợp phát triển kinh tế nông nghiệp và dịch vụ , du lịch; áp dụng sáng tạo các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn (VietGap, hữu cơ, GlobalGap, JAS,…); liên kết chuỗi giá trị với doanh nghiệp để tăng sản lượng, năng suất, giảm chi phí đầu vào, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, sản xuất theo mô hình kinh tế tuần hoàn , cấp mã vùng trồng, cấp mã số nhà sơ chế, đóng gói và xuất khẩu .

HTX công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp liên kết, đẩy mạnh sản xuất, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. HTX vận tải và cung ứng dịch vụ phục hồi khá nhanh, đầu tư thiết bị, phần mềm để quản trị hành trình, khách hàng và vận đơn hàng hóa, tích hợp thanh toán tự động, đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ thành viên; mở rộng lĩnh vực hoạt động xe buýt, vệ sinh môi trường; phục hồi đăng ký lưu hành, bến bãi, luồng tuyến; lắp đặt hệ thống định vị GPS; đáp ứng quy định, yêu cầu, nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa; tuyên truyền, cung cấp các văn bản pháp luật an toàn giao thông để thành viên áp dụng thực hiện; đổi mới phương thức quản lý và phong cách phục vụ hành khách.

HTX thương mại, dịch vụ phục hồi, tăng doanh thu hơn 25% so với cùng kỳ năm 2021 nhờ đổi mới phương thức kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ, bám sát nhu cầu thị trường, đa dạng hóa sản phẩm hàng hóa; tổ chức các loại hình dịch vụ, liên kết duy trì ổn định đảm bảo nguồn hàng trong cung ứng nguyên liệu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đầu ra đối với các HTX, nhất là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. HTX vệ sinh môi trường làm tốt công tác thu gom, vận chuyển rác thải trên địa bàn; mô hình HTX chợ hoạt động ổn định, tạo việc làm cho thành viên và người lao động. Quỹ tín dụng nhân dân phát triển thành viên mới, tăng dư nợ và hiệu quả cho vay.

Số lượng sản phẩm của HTX trong các loại hình được chứng nhận OCOP tăng, chiếm tỷ trọng cao so với tổng sản phẩm OCOP của địa phương. Xu hướng chuyển đổi số, sản xuất hữu cơ, phát triển các mô hình gắn với kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ. Theo khảo sát của Liên minh HTX cấp tỉnh, có 83,5% số HTX được khảo sát cho rằng, việc chuyển đổi số là cần thiết, 18,9% HTX đã có kế hoạch chuyển đổi số, 68% HTX sử dụng ít nhất một trong các phương thức giới thiệu và bán hàng trực tuyến; nhiều HTX nông nghiệp, công nghiệp, thương mại ứng dụng kỹ thuật số để truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu, đa dạng hoá sản phẩm và kênh tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu (FaceBook, Zalo, Fanpage, Group, Shopee, Sendo, Tiki, Ladaza, Voso, Postmart,…). Ngân hàng HTX Việt Nam và các quỹ tín dụng nhân dân đẩy mạnh chuyển đổi số trong cung ứng dịch vụ.

Một số loại hình HTX đẩy mạnh liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. HTX nông nghiệp, HTX du lịch gắn kết sản xuất nông nghiệp đã thực hiện kinh tế tuần hoàn, áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ hóa lý, các tiến bộ khoa học kỹ thuật; thực hiện quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường cho phát triển bền vững trong bối cảnh của thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu, phù hợp định hướng của quốc gia trong phát triển bền vững. HTX thương mại dịch vụ, HTX nông nghiệp, HTX giao thông vận tải, Quỹ tín dụng nhân dân, HTX môi trường,… liên kết trong các công đoạn sản xuất của chuỗi giá trị sản phẩm.

Doanh thu của HTX tăng bình quân 5,6% so với năm 2021; phần lớn HTX, LHHTX có lãi tuy không cao do chi phí đầu vào tăng; nhiều HTX nông nghiệp đạt doanh thu 350 – 400 triệu đồng/ha; thu nhập của HTX phi nông nghiệp tăng 6,7-9,2% so với cùng kỳ năm 2021. Tiêu biểu, HTX nông nghiệp & phát triển nông thôn Hưng Thành (Yên Bái) đã liên kết thành công với HTX Măng tre Bát Độ Hưng Khánh và Công ty TNHH YAMAZAKI trong việc trồng, chăm sóc, thu mua, chế biến và xuất khẩu ổn định sang thị trường Nhật Bản; liên kết giữa Tập đoàn Lộc trời – An Giang với HTX; liên kết chuỗi sản xuất, chế biến và tiêu thụ chanh leo giữa các HTX, THT với Công ty Đồng Giao – Ninh Bình, HTX công nghệ cao Kim Long (Bình Dương), HTX Sunfood (Đà Lạt)…

Cũng theo Báo cáo của LMHTXVN, số HTX thành lập mới phân theo vùng kinh tế được phân bổ chưa đồng đều ở các vùng. Cụ thể: Trung du miền núi phía Bắc 862 HTX, Đồng bằng sông Hồng 285 HTX, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 354 HTX, Tây Nguyên 205 HTX, Đông Nam bộ 154 HTX, Đồng bằng sông Cửu Long 327 HTX.; 8/8 vùng, miền đều có HTX thành lập mới và 6/8 vùng, miền có số lượng thành lập mới tăng so với năm 2021, tiếp đến là các khu vực: Đồng bằng sông Hồng; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; Tây Nguyên; Đông Nam Bộ; Đồng bằng sông Cửu Long… Tỷ trọng lúa, gạo, hồ tiêu và rau quả do các HTX, LHHTX, THT và các thành viên sản xuất tại các vùng, miền chiếm khoảng 70% tổng sản lượng của cả nước; tỷ trọng các nông sản khác và thủy sản chiếm 25% – 30%; tỷ trọng sản xuất sản phẩm OCOP chiếm 45%; tỷ trọng dịch vụ vận tải hành khách và hàng hóa chiếm 29%; tỷ trọng doanh số bán lẻ hàng hóa tiêu dùng thiết yếu chiếm 28%; tỷ trọng dư nợ tín dụng ở địa bàn nông thôn chiếm 14%;…

tm-img-alt
Ảnh minh hoạ

Kinh tế tập thể mà nòng cốt là kinh tế hợp tác xã (HTX) đã trở thành động lực phát triển kinh tế khu vực trung du và miền núi phía bắc. Tính đến nay, số lượng HTX ở vùng Trung du miền núi phía Bắc vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất,  có  4.233 HTX, chiếm 24,15% số HTX trong cả nước. Trong đó, số HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, nông nghiệp, thủy sản) chiếm hơn 60%, còn lại hơn 30% hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, Về năng lực ứng dụng công nghệ cao trong khu vực HTX vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Trung du và miền núi phía Bắc. Thời gian qua, phát triển kinh tế tập thể là một trong những chính sách quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao mức sống cho người dân trên cả nước. Đặc biệt đối với các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, nơi có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao.

Đáng chú ý, các HTX có thành viên, nông dân liên kết là người dân tộc thiểu số đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và quy mô, tuy nhiên, chỉ có khoảng 30% HTX (tương đương 16 đơn vị) đang ứng dụng một phần công nghệ cao vào sản xuất; 60% HTX (tương đương 32 đơn vị) sẵn sàng tiếp nhận chuyển giao và ứng công nghệ cao, chuyển đổi số, đổi mới hoạt động sản xuất, kinh doanh theo hướng hiện đại, về năng lực chuyển đổi số của các HTX vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh Trung du và miền núi Bắc Bộ còn nhiều hạn chế.

Cụ thể, tính đến cuối tháng 7/2022, chỉ có khoảng 45% HTX (tương đương 23 đơn vị) đang sử dụng máy tính và các ứng dụng phần mềm vào hoạt động sản xuất, kinh doanh (chủ yếu là các phần mềm kế toán và một số phần mềm phục vụ sản xuất như ứng dụng theo dõi hoạt động của hệ thống bơm tự động, chạy máy công nghệ cao cho sản xuất đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ; các phần mềm thương mại điện tử, email, khai thác thông tin về mẫu mã, truy xuất nguồn gốc…), tỷ lệ cán bộ quản lý đã qua đào tạo bậc cao đẳng, đại học trong các HTX có thành viên là đồng bào dân tộc thiểu số còn khá thấp, chỉ chiếm 14-21% tùy theo lĩnh vực và tùy từng vùng miền. Đa số cán bộ quản lý HTX mới chỉ được đào tạo qua sơ cấp và trung cấp hoặc học tại các trường nghề. Đặc biệt, lao động trong các HTX vùng dân tộc thiểu số về cơ bản vẫn là lao động phổ thông, tỷ lệ qua đào tạo mới khoảng trên dưới 10% (chỉ bằng hơn 1/3 so với tỷ lệ lao động qua đào tạo của cả nước.

Để kinh tế tập thể đóng góp tích cực hơn cho xây dựng nông thôn mới (NTM) và phát triển kinh tế – xã hội, nhất là ở khu vực miền núi phía bắc thì chúng ta cần có một số giải pháp để phát triển tốt hơn cụ thể như sau:

  1. Phát triển kinh tế tập thể phải bảo đảm vừa phát triển kinh tế của tổ chức kinh tế hợp tác, hợp tác xã, vừa phát triển kinh tế của thành viên và xã hội; khắc phục những yếu kém, tồn tại

          Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, đã chỉ ra những yeus kém, tồn tại cần phải nhanh chóng được khắc phục trong thời gian tới, đó là:

          Một là, tốc độ tăng trưởng chậm, thiếu ổn định, tỷ lệ đóng góp vào GDP của đất nước giảm dần.

          Hai là, nhiều hợp tác xã chưa tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật.

          Ba là, có biểu hiện hình thức, xa rời bản chất, nguyên tắc và giá trị hợp tác xã.

          Bốn là, sự liên kết, hợp tác giữa các hợp tác xã chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp, vai trò của liên hiệp hợp tác xã chưa được phát huy.

          Để khắc phục được các tồn tại nêu trên, trước tiên các tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh hoạt động trên cơ sở nhu cầu chung của các thành viên và của thị trường. Trước hết là đáp ứng các nhu cầu của các thành viên, giúp họ phát triển kinh tế, tăng thu nhập và phát triển bền vững; sau đó hướng tới cung cấp cho thị trường bên ngoài, nhằm cân đối thu – chi, tăng thu nhập cho tổ chức kinh tế tập thể để các tổ chức này bảo toàn vốn và có lãi. Như vậy, tổ chức kinh tế tập thể phải tạo ra hai kênh tăng trưởng, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, quan trọng hơn là nó góp phần nâng cao hiệu quả không chỉ hoạt động của từng thành viên mà còn của chung toàn xã hội, nâng cao sức cạnh tranh không chỉ của từng thành viên mà còn của toàn bộ nền kinh tế.

  1. Phát triển kinh tế tập thể gắn với phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và lợi thế tiềm năng của vùng

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước, là cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của quốc gia. Đồng thời, cũng là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý hiếm và diện tích đồi rừng rộng lớn, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp cùng nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số để phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái.

Về lĩnh vực nông nghiệp, thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển nông nghiệp vùng trung du và miền núi Bắc Bộ theo hướng hàng hóa, sản xuất an toàn, sạch, hữu cơ, xanh, đặc sản, cần đến nguồn lực con người – sự tham gia tích cực của người nông dân, của đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư với vai trò chủ thể. Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên cơ sở đánh giá lợi thế và nhu cầu thị trường quy hoạch một số vùng lúa đặc sản theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, chuyên canh, có thương hiệu sản phẩm. phát huy thế mạnh liên kết  vùng, tiểu vùng; cơ chế, chính sách đặc thù; phân bổ nguồn lực; nguồn nhân lực và tiềm năng, lợi thế để khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng, có chính quyền vùng, ngân sách vùng, cơ chế liên kết điều phối vùng, các chính sách đưa ra cần phải có những điểm những đột phá trong phát triển cơ sở hạ tầng hỗ trợ tăng liên kết vùng và thúc đẩy tăng trưởng.

Tăng cường vai trò của đào tạo nguồn nhân lực, giải pháp về công nghệ trên phạm vi, quy mô liên kết vùng. các tỉnh trong vùng cần tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của liên kết vùng, tập trung khai thác thế mạnh của từng vùng để bổ trợ lẫn nhau cùng phát triển; tiếp tục kiến nghị Trung ương có chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư vào các ngành khai thác lợi thế so sánh, phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng; thực hiện tốt công tác bảo tồn sinh thái, giữ gìn văn hóa, đảm bảo an ninh chính trị, an ninh biên giới.

Phát huy vai trò đầu tàu của những nhân tố năng động như doanh nghiệp khởi nghiệp quy mô vừa và nhỏ, HTX để dẫn dắt tiếp cận các mô hình mới. Đồng thời, khuyến khích sự thay đổi tích cực của người nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư trong cách nghĩ, cách làm, từ thói quen, tập quán sinh hoạt hàng ngày cho tới cách thức sản xuất, kinh doanh nông nghiệp ở vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Nhân rộng mô hình hiệu quả, phát triển HTX theo mô hình mới, Tạo động lực cho hợp tác xã.

tm-img-alt
Phát triển kinh tế tập thể gắn với phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và lợi thế tiềm năng của vùng. Ảnh minh hoạ

Phát triển kinh tế rừng Nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung chính sách đặc thù cho các địa phương chuyển diện tích rừng sản xuất là rừng tự nhiên nghèo kiệt, kém hiệu quả sang trồng rừng gỗ lớn, cây ăn quả,… theo hướng thâm canh, hình thành các vùng trồng tập trung có giá trị kinh tế cao. Xem xét có cơ chế, chính sách đặc thù trong phát triển, bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước và phát triển kinh tế-xã hội. Tiếp đó là xem xét, có cơ chế, chính sách đặc thù trong phát triển đẩy mạnh xã hội hóa nghề rừng, giao đất, giao rừng. Nghiên cứu có cơ chế, chính sách huy động nguồn lực của vùng có chung lợi ích cho việc bảo vệ, phát triển rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp của vùng.

Thúc  đẩy chuyển dịch cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hàng hóa, xây dựng thương hiệu và chuỗi giá trị; đẩy mạnh phát triển, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, thương mại thế mạnh, như: du lịch, vận tải, logistics đi đôi tăng cường các dịch vụ tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin; phát triển các sản phẩm du lịch chất lượng cao, đặc trưng gắn với văn hóa vùng

  1. Phát triển kinh tế tập thể phải góp phần bảo đảm ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng

          Nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo trong điều kiện hiện nay còn nhiều khó khăn, thách thức. Hợp tác xã, do tính chất đồng sở hữu, đồng là người sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, có trường hợp vừa là thành viên, vừa là lao động trong hợp tác xã; tham gia hợp tác xã có cả cá nhân và tổ chức; có cả người Việt Nam và người nước ngoài, hơn nữa, khi người lao động trở thành thành viên hợp tác xã đồng nghĩa với việc họ trở thành đồng sở hữu hợp tác xã đó.

Do vậy, ngày càng nhiều người lao động trở thành người làm chủ tổ chức, làm chủ xã hội, làm lan tỏa tính dân chủ từ trong hợp tác xã ra ngoài xã hội. Mặt khác, vị thế xã hội của người lao động trong hợp tác xã cũng được cải thiện, họ vừa là người lao động (làm thuê) vừa là người chủ sở hữu hợp tác xã. Với tư cách là người chủ sở hữu, người lao động sẽ tìm cách duy trì việc làm, tăng thu nhập cho hợp tác xã và cho chính mình.

Hợp tác xã tham gia xây dựng và quản lý hạ tầng kỹ thuật, như đường giao thông, nhà kho, hệ thồng mương máng, các cơ sở chế biến, dịch vụ; tổ chức các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của thành viên như tín dụng, bảo hiểm, y tế, giáo dục, tiêu dùng và các dịch vụ khác không chỉ cho thành viên mà có thể cả cộng đồng xã hội nơi hợp tác xã đặt trụ sở và hoạt động, khi người dân có cuộc sống tốt hơn, các nhu cầu về cuộc sống được bảo đảm hơn, xã hội sẽ ổn định hơn, đất nước được thịnh vượng, an ninh quốc phòng được bảo đảm.

  1. Phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã phải bám sát các nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã, các quy định của Luật hợp tác xã năm 2012 và các luật khác liên quan

Năm 2012, Quốc hội đã ban hành Luật HTX  mới thay thế cho Luật HTX năm 2003 (gọi tắt là Luật HTX năm 2012) và có hiệu lực từ ngày 1-7-2013. Theo đó, khi củng cố, đổi mới các HTX đã được thành lập trước Luật HTX năm 2012 và khi phát triển thành lập mới HTX theo luật này phải bám sát các quy định của luật, nhất là các nguyên tắc HTX được nêu trong luật này, cụ thể:

a. Về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (Điều 3)

b. HTX là tổ chức KTTT, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viêm tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý HTX.

c. LHHTX là tổ chức KTTT, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 04 HTX tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của HTX thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý LHHTX.

d. Khi HTX, LHHTX phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của HTX, LHHTX; doanh nghiệp của HTX, LHHTX hoạt động theo Luật doanh nghiệp.

Một số điểm cần nhận thức đúng:

– Nhu cầu chung của thành viên, HTX thành viên là nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ giống nhau phát sinh thường xuyên, ổn định từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống của thành viên. Đối với HTX tạo việc làm thì nhu cầu chung của thành viên là nhu cầu việc làm của thành viên trong HTX do HTX tạo ra.

– Vốn góp tối thiểu là số vốn mà cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân phải góp vào điều lệ của HTX, LHHTX theo quy định của điều lệ HTX, LHHTX để trở thành thành viên, hợp tác xã thành viên.

– Vốn điều lệ là tổng số vốn do thành viên, HTX thành viên góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào điều lệ HTX, LHHTX.

– Tài sản không chia là một bộ phận tài sản của HTX, LHHTX không được chia cho thành viên, HTX thành viên khi chấm dứt tư cách thành viên, tư cách HTX thành viên hoặc khi HTX, LHHTX chấm dứt hoạt động.

– Hợp đồng dịch vụ là thảo thuận giữa HTX, LHHTX với thành viên, HTX thành viên về việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX, LHHTX nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, HTX thành viên.

– Sản phẩm, dịch vụ của HTX, LHHTX cho thành viên, HTX thành viên là sản phẩm, dịch vụ do HTX, LHHTX cung cấp cho thành viên, HTX thành viên theo hợp đồng dịch vụ thông qua một hoặc một số hoạt động sau đây:

a) Mua chung sản phẩm, dịch vụ từ thị trường để phục vụ cho thành viên, HTX thành viên;

b) Bán chung sản phẩm, dịch vụ của thành viên, HTX thành viên ra thị trường;

c) Mua sản phẩm, dịch vụ của thành viên, HTX thành viên bán ra thị trường;

d) Mua sản phẩm, dịch vụ từ thị trường để bán cho thành viên, HTX thành viên;

e) Cung ứng phương tiện, kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ thành viên, HTX thành viên;

g) Tín dụng cho thành viên, HTX thành viên;

h) Tạo việc làm cho thành viên dối với các HTX tạo việc làm;

i) Các hoạt động khác theo quy định của điều lệ HTX, LHHTX;

– Mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, HTX thành viên là tỷ lệ giá trị sản phẩm, dịch vụ mà từng thành viên, HTX thành viên sử dụng trên tổng giá trị sản phẩm, dịch vụ do HTX, LHHTX cung ứng cho tất cả thành viên, HTX thành viên.

Đối với HTX tạo việc làm thì mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ là công sức lao động đóng góp của thành viên đối với HTX được thể hiện bằng tỷ lệ tiền lương của từng thành viên trên tổng tiền lương của tất cả thành viên.

b) Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (Điều 7)

Nguyên tắc thứ nhất: Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi hợp tác xã. Hợp tác xã tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi liên hiệp hợp tác xã.

Hợp tác xã là các tổ chức tự nguyện, đối với mọi thành viên xã hội mong muốn sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, sẵn sàng chấp thuận các trách nhiệm thành viên hợp tác xã, không phân biệt giới tính, xã hội, chúng tộc, chính trị hoặc tôn giáo.

Nguyên tắc tham gia tự nguyện là rõ ràng: không ai không tổ chức nào có thể bắt buộc người dân tham gia hợp tác xã.

Nhưng tại sao hợp tác xã thực hiện nguyên tắc này? Hợp tác xã là tổ chức tập hợp những đối tượng có nhu cầu chung về kinh tế, văn hóa, xã hội và đáp ứng các nhu cầu ấy một cách hiệu quả hơn so với từng thành viên đơn lẻ thực hiện. Vì vậy, về mặt kinh tế, cộng đồng xã viên chính là thị trường của hợp tác xã; càng nhiều xã viên thì việc đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã đối với xã viên càng hiệu quả nhờ kinh tế quy mô và dung lượng thị trường tăng lên.

Về mặt văn hóa, xã hội cộng đồng xã viên càng lớn thì càng phát huy tinh thần hợp tác, tinh thần quản lý dân chủ trong hợp tác xã, sinh hoạt văn hóa cộng đồng càng phát huy hiệu quả, lan rộng. Chính vì vậy, nguyên tắc này trở thành nguyên tắc hàng đầu của hợp tác xã và được nhiều nước đưa vào luật về hợp tác xã, theo đó hợp tác xã phải cho mọi người có cùng nhu cầu và thường sinh sống trên cùng địa bàn lãnh thổ tham gia, không được phân biệt đối xử về dân tộc, sắc tộc, giới.

Hợp tác xã phải thực hiện nguyên tắc tự nguyện như là nguyên tắc đầu tiên của hợp tác xã. Mặc dù về nguyên tắc, việc tham gia hợp tác xã là có lợi hơn, là thực hiện đơn lẻ, nhưng xã viên tham gia hợp tác xã phải trên cơ sở tự nguyện, không chịu bất kỳ áp lực nào thì mới có đầy đủ động lực và trách nhiệm cùng hợp tác xã phát triển bền vững.

tm-img-alt
Hợp tác xã phải thực hiện nguyên tắc tự nguyện như là nguyên tắc đầu tiên của hợp tác xã. Ảnh: ITN

Nguyên tắc thứ hai: hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, hợp tác xã thành viên.

Hợp tác xã thuận lợi hơn doanh nghiệp khác ở chỗ, khi thành lập đã xác định được thị trường chính của mình là các thành viên tham gia hợp tác xã. Nếu hợp tác xã có càng nhiều thành viên, thì nhu cầu sản phẩm, dịch vụ càng lớn, đồng nghĩa với càng có lợi cho hoạt động kinh doanh của hợp tác xã. Ví dụ, hợp tác xã nông nghiệp A có 7 thành viên, mỗi vụ trồng lúa chỉ có nhu cầu 7 tấn phân đạm, 7 tấn phân lân, hợp tác xã thuê một xe ô tô tải công suất 20 tấn, nhưng mỗi lần chở hàng chỉ 14 tấn thì hiệu quả rất thấp.

Nếu hợp tác xã thu hút được thêm ít nhất 20 hộ nông dân, ít nhất nhu cầu của 20 thành viên sẽ là 20 tấn, mỗi chuyến xe chở đủ 20 tấn thì vừa đạt được công suất, vừa có lợi hơn vì thường “mua nhiều, giá rẻ”, thành viên cũng sẽ có lợi hơn. Có nhiều thành viên, số lượng sản phẩm cũng sẽ lớn hơn, việc tổ chức cung ứng các dịch vụ sẽ thuận lợi hơn, dịch vụ này bù chỗ dịch vụ khác, kết quả chung sẽ hiệu quả hơn. Do vậy, luật khuyến khích kết nạp càng nhiều thành viên càng tốt là như vậy.

Nguyên tắc thứ ba: Thành viên, hợp tác xã thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và có những nội dung khác theo quy định của điều lệ.

Hợp tác xã là tổ chức mang tính dân chủ được kiểm soát bởi các thành viên là những người tham gia vào việc xác định các chính sách và ra quyết định của hợp tác xã với tư cách vừa là đồng sở hữu vừa là đồng sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Khi quyết định các vấn đề của hợp tác xã, mọi thành viên đều có quyền như nhau, mỗi người một phiếu, không phụ thuộc vào số vốn góp vào hợp tác xã nhiều hay ít.

Có thể khẳng định, đây là sự khác biệt riêng có của mô hình hợp tác xã. Làm như vậy là nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của mỗi thành viên, giảm khả năng chi phối của thành viên góp nhiều vốn như thường thấy ở các mô hình công ty cổ phần, tăng tính cộng đồng, tăng tính trách nhiệm của tất cả các thành viên tham gia hợp tác xã.

Trước hết, trước khi thành lập hợp tác xã, tất cả xã viên hợp tác xã đều hiểu biết rõ ràng nhu cầu chung của mình về kinh tế, văn hóa, xã hội; hợp tác xã đáp ứng nhu cầu chung đó (thông qua cung cấp sản phẩm hay dịch vụ chung) có hiệu quả hơn so với từng xã viên tự mình đáp ứng. Xã viên nào cũng nhận thức rõ ràng như vậy và giống nhau thì đương nhiên quyết định của họ là bình đẳng.

Phương án hoạt động (sản xuất, kinh doanh) của hợp tác xã chính là phương án tổ chức hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ chung cho mọi xã viên thông qua một doanh nghiệp chung trực thuộc hợp tác xã. Mọi xã viên đều có quyền như nhau bàn bạc về việc thực hiện phương án này sao cho có hiệu quả nhất trong việc đắp ứng các nhu cầu của thành viên. Khi thành lập hợp tác xã và phương án hoạt động của hợp tác xã, xã viên phải góp vốn dù ít, dù nhiều, theo bất cứ phương thức nào: cổ phần hay tùy khả năng tài chính từng xã viên, v.v…

Khi tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ chung của hợp tác xã, thành viên khác nhau tiêu dùng khác nhau, tiêu dùng nhiều thì lợi nhiều, tiêu dùng ít thì lợi ít, nhưng xã viên nào cũng được lợi.

Phần thu nhập còn lại của hợp tác xã được đưa vào quỹ phúc lợi và quỹ phát triển hợp tác xã, mang lại lợi ích chung cho cả cộng đồng xã viên mà mỗi thành viên đều được hưởng một cách công bằng hơn.

Với cách thức như vậy, rõ ràng hợp tác xã và doanh nghiệp trong hợp tác xã được quản lý một cách dân chủ bởi tất cả xã viên; mỗi xã viên có một phiếu biểu quyết như nhau; xã viên được hưởng lợi từ nhiều cách: vốn góp, thụ hưởng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, quỹ phúc lợi chung. Như vậy, mọi lợi ích của hợp tác xã đều thuộc về thành viên; lợi ích được phân phối công bằng theo sự đóng góp khác nhau mà không bình quân chủ nghĩa cào bằng.

Nguyên tắc thứ tư: hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.

Hợp tác xã là tổ chức của người dân, do họ cùng có nhu cầu chung, tự nguyện hợp tác với nhau hình thành tổ chức hợp tác xã để thỏa mãn những nhu cầu chung của chính các thành viên. Khi vào hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên phải góp vốn. Số vốn đó là của chính họ, do vậy họ phải có trách nhiệm với số vốn đó. Đồng thời, khi thành lập hợp tác xã phải có kế hoạch kinh doanh, hoạt động phù hợp với nhu cầu của thành viên, không trái với quy định của pháp luật. Nhưng chỉ được hoạt động những gì đã được cơ quan có thẩm quyền cấp đăng ký kinh doanh.

Trong quá trình hoạt động phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Theo luật, hợp tác xã chỉ phải chịu trách nhiệm giới hạn trong phạm vi vốn góp (vốn điều lệ) của HTX (trách nhiệm hữu hạn). Khi hợp tác xã phá sản, thành viên không phải mang tài sản thuộc sở hữu của cá nhân mình đưa vào hợp tác xã để xử lý nợ của hợp tác xã như doanh nghiệp tư nhân.

Nguyên tắc thứ năm: thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ. Thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm.

Đây là điểm mới của Luật hợp tác xã 2012. Tại sao thành viên phải cam kết sử dụng dịch vụ của hợp tác xã? Thực tiễn cho thấy, do nhiều lý do khác nhau, hợp tác xã và tư nhân, doanh nghiệp cung cấp cùng một dịch vụ, trên cùng địa bàn, nhưng các thành viên của hợp tác xã thường sử dụng dịch vụ của các đối tượng không phải hợp tác xã, gây khó khăn cho hợp tác xã.

Hơn nữa, nếu thành viên cam kết sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã thì việc huy động vốn góp (ứng trước), việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của hợp tác xã sẽ thuận lợi hơn, chất lượng đầu vào, đầu ra sẽ đồng đều hơn, giá cả sẽ chủ động hơn, hiệu quả kinh tế sẽ tốt hơn nhiều và chính hợp tác xã cũng phải nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí, bảo đảm giá thành hợp lý, thành viên sẽ không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của tổ chức, cá nhân khác ngoài hợp tác xã.

Việc phân phối thu nhập ( khoản thặng dư chênh lệch thu – chi hay còn gọi là lãi sau thuế) chủ yếu theo mức độ sử dụng dịch vụ của thành viên mà không phải theo vốn góp. Các thành viên phải góp vốn vào hợp tác xã và nhận được một khoản bồi hoàn nhất định tùy theo vốn góp. Đó là điều đương nhiên. Tuy nhiên, luật quy định phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm dịch vụ của thành viên hoặc công sức đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã của người lao động; mà không đề cập đến phân phối theo vốn góp của thành viên; không có nghĩa là không chia lãi theo vốn góp; mà là không nhất định phải có.

Tùy thuộc vào mô hình tổ chức hợp tác xã đó để thành viên quyết định. Nếu là hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, thương mại, dịch vụ thì thường thành viên được ưu tiên chia lãi theo mức độ sử dụng dịch vụ là hợp lý. Nếu hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, thì khi tham gia hợp tác xã tín dụng (Ngân hàng hợp tác xã hay quý tín dụng nhân dân) thì rất cần số vốn lớn, nếu không chia lãi theo vốn góp sẽ làm hạn chế việc thành viên góp nhiều vốn vào hợp tác xã.

Hơn nữa, thành viên góp vốn ít, vay nhiều lại được chia lãi nhiều; ngược lại, người góp vốn nhiều, nhưng vay ít, được chia lãi ít là chưa hợp lý; điều này các hợp tác xã cần phải quy định cụ thể trong điều lệ của hợp tác xã mình để phù hợp với điều kiện cụ thể. Thực tiễn, hiện nay không ít quỹ tín dụng nhân dân, khi vào thành viên chỉ phải góp 50.000 – 100.000 đồng là trở thành thành viên của Quỹ; với mức góp vốn như vậy, thì việc chia lãi theo vốn góp không mang nhiều ý nghĩa. Đối với tổ chức hợp tác xã của người lao động, được chia lãi chủ yếu theo công sức đóng góp của thành viên là hợp lý, bởi mục đích của họ là tạo việc làm và thu nhập cho chính các thành viên cũng là lao động trực tiếp tại tổ chức hợp tác xã đó.

Nguyên tắc thứ sáu: Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quan tâm đến giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho thành viên, hợp tác xã thành viên, cán bộ quản lý, người lao động trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và thông tin về bản chất, lợi ích của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Con người là nhân tố quan trọng nhất trong mỗi tổ chức, không có một ai tự nhận hoặc khẳng định rằng, mình đã được đào tạo đầy đủ tất cả các kỹ năng làm việc, với tất cả các vấn đề liên quan. Hơn nữa, hợp tác xã là tổ chức vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và thành viên vừa là người góp vốn, lao động, vừa là chủ sở hữu hợp tác xã. Sau đó, người lãnh đạo, thành viên, người lao động cần được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên để cập nhật thêm thông tin, nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng làm việc, đồng thời thông qua các hoạt động này để mọi người hiểu nhau hơn, biết rõ tình hình của hợp tác xã, nắm thực quyền, trách nhiệm, lợi ích của mình và của hợp tác xã… Hoạt động này phải được đưa vào kế hoạch hoạt động hằng năm của hợp tác xã và danh nguồn kinh phí nhất định để thực hiện có hiệu quả, hợp tác xã mới phát triển bền vững.

Nguyên tắc thứ bảy: Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chăm lo phát triển bền vững cộng đồng thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác với nhau nhằm phát triển phong trào hợp tác xã trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế.

Trước hết, các thành viên sáng lập hợp tác xã đều xuất phát từ nhu cầu của chính họ, các thành viên hợp tác lại với nhau để phát huy lợi thế số đông (tập thể) để huy động nguồn lực, cùng mua chung, bán chung, sử dụng chung dịch vụ, cùng chia sẻ khó khăn để cùng nhau cải thiện thu nhập, cải thiện cuộc sống cả về vật chất và tinh thần tốt hơn. Đó là nguyện vọng chính đáng của con người, của thành viên.

Do vậy, hợp tác xã trước tiên phải hướng vào các ứng các nhu cầu chung của thành viên, tạo mọi thuận lợi cho thành viên, bảo nằm rằng đa số các thành viên hài lòng. Tuy nhiên, hợp tác xã phải hoạch toán thu chi rõ ràng, minh bạch, bảo đảm chi phí hợp lý, có tích lũy để phát triển. Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì tính cạnh tranh ngày càng gay gắt, nếu hợp tác xã đơn độc một mình thì rất khó phát triển. Thực tiễn trên thế giới cho thấy, xu hướng hợp tác, liên kết kinh tế là xu hướng tất yếu, khách quan và hoàn toàn phù hợp với mọi thành phần kinh tế. Tổ chức kinh tế hợp tác xã không phải ngoại lệ.

  1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức kinh tế tập thể trong bối cảnh toàn cầu hóa và Việt Nam hội nhập quốc tế

Một đặc trưng lớn của thế kỷ XXI là toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Từ năm 2006, Việt Nam hội nhập đầy đủ vào khu vực mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) và năm 2007 gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO). Các mối quan hệ kinh tế song phương của nước ta sẽ phát triển rộng, nhanh và mạnh. Việt Nam sẽ tận dụng được nhiều cơ hội phát triển mới đồng thời phải đối mặt và vượt qua nhiều thách thức mới. Trong bối cảnh đó việc nâng cao sức cạnh tranh của toàn nền kinh tế nói chung và của các tổ chức kinh tế nói riêng, trong đó có tổ chức hợp tác xã là đặc biệt quan trọng.

  1. Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong bối cảnh tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới một cách toàn diện và mạnh mẽ

Trong gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: thoát nhanh ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội vào đầu những năm 1990, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối khá trong thời gian dài, cải thiện một bước quan trọng đời sống nhân dân, giữ vững an ninh, quốc phòng và trật tự, an toàn xã hội, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, nước ta đang đứng trên trước nhiều thách thức to lớn: tăng trưởng kinh tế chưa cao so với tiềm năng, hiệu quả và chất lượng tăng trưởng thấp; công tác xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, cách biệt giàu – nghèo, thành thị – nông thôn tăng lên; môi trường, nhất là ở đô thị, xấu đi nghiêm trọng; nhiều mâu thuận xã hội phát sinh phức tạp kéo dài; v.v. Vượt qua các thách thức này đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của hợp tác xã. Hợp tác xã với tư tưởng chủ đạo “hợp tác” là một thể chế quan trọng phát huy sức mạnh tổng hợp của kinh tế hộ, kinh tế cả thể, pháp nhân kinh doanh khác, phát huy lợi thế của tính kinh tế quy mô, đạt được lợi ích toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và phát triển bền vững đất nước.

Công cuộc đổi mới đã thổi một luồng sinh khí mạnh mẽ giải Phóng tiềm năng kinh tế hộ, kinh tế cá thể, cá nhân con người Việt Nam; kinh tế hộ trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Tiềm năng được giải phóng này là đặc biệt quan trọng nhưng cũng có giới hạn nhất định, muốn phát triển mạnh mẽ hơn cần phải hợp tác lại với nhau; nhu cầu hợp tác xuất hiện, dẫn đến thành lập hợp tác xã kiểu mới trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có sự quản lý của nhà nước. Hợp tác xã trong sản xuất – kinh doanh, cụ sản phẩm và cải thiện đời sống thành viên, đời sống cộng đồng thông qua hợp tác xã là một giải pháp chiến lược nhằm góp phần nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, của hợp tác xã và của sản phẩm, dịch vụ được sản xuất trong nước.

Hợp tác xã trước hết phải phục vụ phát triển kinh tế thành viên, mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho thành viên. Hợp tác xã và kinh tế hộ, kinh tế cá thể là hai thể chế độc lập nhưng gắn kết hữu cơ với nhau, cùng phát triển.

Với chức năng cung cấp dịch vụ phục vụ đời sống xã viên, đời sống cộng đồng, hợp tác xã có vai trò xã hội quan trọng trong việc góp phần cải thiện đời sống xã viên và gia đình họ, gắn kết các xã viên hợp tác xã thành cộng đồng chặt chẽ toàn diện về các mặt, gắn liền cộng đồng xã viên với cộng đồng dân cư tại địa phương.

Công cuộc đổi mới cần được tiếp tục một cách mạnh mẽ và toàn diện để giải phóng tiềm năng còn lớn nói trên, góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế và phát triển bền vững đất nước.

  1. Phát triển kinh tế tập thể gắn với phát triển cộng đồng dân cư trên địa bàn, góp phần bảo đảm ổn định chính trị và an sinh xã hội

Hợp tác xã là một thể chế hữu hiệu cung cấp dịch vụ đời sống cho cộng đồng dân cư, nhất là ở nông thôn. Thực tế là trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo phát triển nông thôn, đã đầu tư khối lượng lớn vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn như điện, đường, trường, trạm, chợ, v.v. Ước tính trong năm năm qua vốn đầu tư phát triển cho riêng lĩnh vực nông nghiệp – lâm nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 10% tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước.

Các nguồn đầu tư vốn này nếu được đầu tư thông qua hợp tác xã, kết hợp với sự đóng góp của hợp tác xã và xã viên hợp tác xã , quản lý của hợp tác xã đối với các công trình sau khi đầu tư – tức là làm cho các công trình này có “chủ” thực sự, sẽ nhân hiệu quả lên gấp bội. Các hoạt động văn hóa có thể được phát triển trong cộng đồng xã viên hợp tác xã nói riêng và cộng đồng dân cư tại địa phương nói chung. Cá nhân, phụ gia đình thông qua hợp tác xã được tập hợp trong một tổ chức, giúp đỡ lẫn nhau toàn diện về kinh tế và đời sống, có thể tự giải quyết các vấn đề nội bộ cộng đồng thần tương thân, tương ái, từ đó có phần giải quyết ngay từ cơ sở khác mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, góp phần ổn định xã hội.

Việc cải thiện đời sống kinh tế và xã hội của cộng đồng xã viên hợp tác xã nói riêng và cộng đồng dân cư tại địa phương nói chung một khi đã vững chắc sẽ góp phần quan trọng gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, lá lành đùm lá rách, không chỉ trong bảo vệ Tổ quốc mà cả trong xây dựng đất nước, trong sản xuất và đời sống; củng cố và nâng cao tinh thần hợp tác giữa người dân với nhau và giữa người dân với tổ chức; góp phần tích cực thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, nâng cao văn minh ở khu dân cư, đặc biệt trong nông thôn; góp phần ổn định chính trị và tham gia củng cố hệ thống chính trị ngay tại gốc, giữ vững trật tự, an toàn xã hội khu dân cư, củng cố an ninh, phòng ngay tại địa bàn cơ sở.

  1. Phát triển kinh tế tập thể theo hướng liên kết kinh tế ngành

Bên cạnh mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho các thành viên, hợp tác xã có phần tăng cường tinh thần hợp tác và lan rộng tinh thần hợp tác trên quy mô không chỉ trong phạm vi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cấp huyện, tỉnh, quốc gia, mà còn có quy mô khu vực và quốc tế; có phần quan trọng đưa hợp tác, đoàn kết, tinh thần trợ giúp lẫn nhau trở thành văn hóa.

Khuyến khích các hợp tác xã liên kết, hợp tác với nhau. Nhà nước tạo điều kiện để hình thành các liên hiệp hợp tác xã theo ngành dọc từ cấp cơ sở đến cấp trung ương. Hiện tại, các cơ sở kinh tế tập thể hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tín dụng đã liên kết lại với nhau, hình thành Hiệp hội Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam mà nòng cốt là Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương (nay là Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam), bước đầu đã có những hoạt động thiết thực trong liên kết, hỗ trợ nhau cùng phát triển.

Thực tế cho thấy tiềm năng phát triển khu vực hợp tác xã còn lớn nếu Nhà nước có chính sách hỗ trợ hợp tác xã tiếp cận được các nguồn lực cho đầu tư phát triển, đồng thời làm tăng về chất sự “hợp tác” trong hợp tác xã, dần đưa “hợp tác” trở thành văn hóa trong khu vực hợp tác xã nói riêng trong xã hội nói chung. Dự báo đến năm 2020 và sau đó sẽ là: tiếp tục giải phóng tối đa tiềm năng kinh tế xã viên đi đôi với sự thăng hoa của hợp tác xã; xã viên và hợp tác xã là hai thành tố hữu cơ của khu vực hợp tác xã. Hợp tác sẽ phát triển mạnh về chất lượng với sự tăng lên ngày càng lớn số lượng xã viên, bao gồm đông đảo cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân ; xã viên hợp tác xã sẽ chiếm phần lớn lao động xã hội, nhất là ở vùng nông thôn; hợp tác xã sẽ mở rộng quy mô liên vùng, liên lãnh thổ và toàn quốc, thậm chí vươn ra tầm khu vực và quốc tế, trở thành thể chế có trọng lượng về kinh tế, chính trị, xã hội trong đời sống đất nước, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội.

  1. Phát triển kinh tế tập thể gắn với việc thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội của đất nước

Phát triển kinh tế tập thể gắn với thực hiện các chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, như phát triển, gắn bó với công nghiệp hóa – hiện đại hóa, góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội… Đối với Chương trình xây dựng nông thôn mới, củng cố, phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã, thực chất, thiết thực, hiệu quả rõ nét hơn các thành phần kinh tế khác tại địa phương.

Ths. Nguyễn Thị Thủy

Phó Viện trưởng Viện Phát triển kinh tế hợp tác –

Liên minh Hợp tác xã Việt Nam

Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị

Bạn cũng có thể thích