Mặt trận tổ quốc Việt Nam giám sát, phản biện xã hội nhiệm vụ phát triển Kinh tế- Xã hội

Mặt trận tổ quốc Việt Nam giám sát, phản biện xã hội nhiệm vụ phát triển Kinh tế- Xã hội

Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp ở cơ sở đã chủ trì và tham gia cùng các cơ quan, tổ chức giám sát nhiều nội dung quan trọng liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân

Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Là bộ phận hợp thành hệ thống chính trị, Mặt trận đóng vai trò “nòng cốt” để nhân dân làm chủ, có trách nhiệm kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, giám sát, phản biện xã hội, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân để nhân dân là trung tâm, là chủ thể của sự phát triển. 

1. Tiềm năng, thế mạnh, động lực phát triển của Vùng

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc bao gồm 14 tỉnh, chiếm 35% diện tích tự nhiên của cả nước, 14,7 triệu người, có hơn 30 dân tộc, chiếm khoảng 15,2% dân số cả nước. Là vùng đất có bề dày lịch sử với nhiều di sản văn hóa đặc sắc, nhất là của đồng bào các dân tộc thiểu số; có truyền thống cách mạng vẻ vang; là là nơi có các di tích gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước của Dân tộc ta như di tích đền Hùng (Phú thọ), Hang Pắc Bó (Cao Bằng), Cây đa Tân Trào và An toàn khu (Tuyên Quang), Điện Biên Phủ (Điện Biên)…; Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các tỉnh trong Vùng luôn có truyền thống yêu nước, đoàn kết, thống nhất và có ý chí, quyết tâm cao. Đây là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của quốc gia. Đồng thời, đây cũng là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý, hiếm và diện tích đồi rừng rộng lớn, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp và nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào các DTTS để phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ.

tm-img-alt
Thời gian qua, nhiều chủ trương, chính sách tập trung ưu tiên phát triển Vùng, đạt được nhiều kết quả, thành tích quan trọng nhưng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Ảnh minh hoạ

Trên cơ sở tổng kết 17 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng TD&MNBB đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 lần này thể hiện rất rõ tinh thần đổi mới, quyết tâm rất cao của Đảng ta là quyết tâm tạo sự chuyển biến có tính đột phá trong phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, thể hiện rất rõ ngắn gọn, xúc tích 5 nội dung, thể hiện nhận thức, quan điểm, đánh giá vai trò, vị trí của vùng: là “địa đầu”, “phên giậu”, “lá phổi”, “cội nguồn dân tộc” và là “cái nôi của cách mạng Việt Nam”.

Thời gian qua, nhiều chủ trương, chính sách tập trung ưu tiên phát triển Vùng, đạt được nhiều kết quả, thành tích quan trọng nhưng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Hội nghị triển khai Nghị quyết 11-NQ/TW và một số hội thảo cũng đã làm rõ hơn giải pháp phát triển vùng, tuy nhiên rất cần có những góc nhìn, thông tin sâu rộng để thể chế các giải pháp thành cơ chế, chính sách đặc thù, ưu tiên đặc biệt, phù hợp với điều kiện cụ thể của vùng. Tôi đánh giá cao việc tổ chức Hội thảo hôm nay.

2. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Vùng

Với nhiệm vụ được qui định tại điều 9 Hiến pháp năm 2013 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện, hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, phối hợp thống nhất hành động, có tổ chức thống nhất từ trung ương đến ban công mặt trận khu dân cư. Theo đó, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, đồng bào Việt Nam ở nước ngoài tự nguyện tham gia làm thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tự nguyện thực hiện Chương trình phối hợp và thống nhất hành động vì mục tiêu chung là xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Phản biện xã hội là các dự thảo chính sách, pháp luật, các kế hoạch, chương trình, đề án trước khi cấp có thẩm quyền quyết định. Giám sát là việc theo dõi, nhận xét, đánh giá, kiến nghị việc thực hiện chính sách, pháp luật, kế hoạch, chương trình, đề án đã được cấp có thẩm quyền quyết định. Giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội và Nhân dân là phương thức để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội, đổi mới mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị; là công cụ, kênh thông tin quan trọng và không thể thiếu giúp cấp ủy, chính quyền đưa ra các quyết định đúng đắn, hợp lòng dân. Giám sát, phản biện xã hội đã được thực hiện trên thực tế và đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Mục đích của giám sát, phản biện xã hội:

(1) Nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Phản biện xã hội ngằm tăng cường đồng thuận xã hội, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả của chính sách, pháp luật, các giải pháp tổ chức thực hiện dự kiến được ban hành.

(2) Kịp thời phát hiện những quy định không phù hợp với thực tiễn, trái Hiến pháp, pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, kiến nghị đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản đó; phát hiện có sự hiểu khác nhau về nội dung của văn bản hoặc một quy định nào đó, dẫn đến việc thực hiện khác nhau, thì kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải thích pháp luật để việc thực hiện được thống nhất và chính xác; kiến nghị những sai phạm, khuyết điểm và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm, nếu có vi phạm chính sách, pháp luật.

(3) Phát hiện, phổ biến nhân tố mới, những mặt tích cực, điển hình tiên tiến; Giúp cho cá nhân, tổ chức nâng cao ý thức trách nhiệm, gương mẫu chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, những quy định ở khu dân cư; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

(4) Giúp cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và tổ chức đóng trên địa bàn cấp xã nắm chắc hơn tình hình cán bộ, công chức, đảng viên thuộc diện mình quản lý về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, quan hệ với dân, trên cơ sở đó có hướng bồi dưỡng, sử dụng cán bộ tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của tổ chức, nhất là những tổ chức giải quyết những việc trực tiếp liên quan đến quyền lợi của người dân.

(5) Thông qua hoạt động giám sát, nâng cao vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên và Nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.

Nội dung giám sát, phản biện xã hội:

Ở Trung ương tập trung vào phản biện xã hội, giám sát việc thực hiện việc thể chế các chủ trương, chính sách của Đảng với đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, với xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo; tham gia việc tổng kết đánh giá thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, đề xuất các chính sách, cách làm mới thiết thực, hiệu quả.

Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp ở cơ sở đã chủ trì và tham gia cùng các cơ quan, tổ chức giám sát nhiều nội dung quan trọng liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, trong đó tập trung vào việc thực hiện chính sách đất sản xuất, nước sạch và nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số; chế độ, chính sách bồi thường đất đai, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất; việc bố trí tái định cư và tạm cư cho người dân có nhà, đất bị thu hồi; việc thực hiện quy hoạch, dự án còn để kéo dài nhiều năm; việc sáp nhập thôn, xã; về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; về công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; việc thực hiện các quy định pháp luật về cơ sở y tế tư nhân; phối hợp thực hiện và giám sát tổng rà soát chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng; thực hiện chính sách với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số; việc thực hiện đưa người cai nghiện ma túy không nơi cư trú ổn định trên địa bàn vào cơ sở xã hội…

Tại các địa phương tổ chức và hoạt động của Ban TTND và Ban GSĐTCĐ ở xã, phường, thị trấn luôn chú trọng, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động. Ban TTND và Ban GSĐTCĐ đã kiến nghị với chính quyền xử lý nhiều vi phạm, góp phần hạn chế những tiêu cực ở cơ sở trên các lĩnh vực như đất đai, giao thông, thu chi ngân sách, thực hiện kịp thời các chế độ, chính sách đối với các đối tượng được hưởng ưu đãi của Nhà nước với thôn bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.

tm-img-alt
Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp ở cơ sở đã chủ trì và tham gia cùng các cơ quan, tổ chức giám sát nhiều nội dung quan trọng liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Ảnh: ITN

Điểm nhấn trong thực hiện nhiệm vụ của Mặt trận là kết hợp với tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện với nhiệm vụ lắng nghe ý kiến nhân dân, tập hợp, tổng hợp ý kiến nhân dân, phát hiện những vướng mắc, bất cập trong các văn bản hướng dẫn, qui định của pháp luật, trong tổ chức thực hiện để phản ánh, kiến nghị kịp thời đến cấp ủy, chính quyền. Đây là nhiệm vụ không thể tách rời giữa giám sát và tuyên truyền, vận động của Mặt trận; giữa tuyên truyền vận động với phản ánh, kiến nghị kịp thời những vướng mắc, bất cập; giữa góp ý và phản biện xã hội về những dự thảo về đề án, chương trình, kế hoạch, cơ chế, chính sách, pháp luật với giám sát việc thực hiện.

3. Mặt trận Tổ quốc phản biện xã hội, giám sát việc thực hiện các chương trình mục tiêu Quốc gia

Thứ nhất,Chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh , gắn với giảm nghèo bền vững

Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 7, khoá X của Đảng đã khẳng định: nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời Nghị quyết cũng chỉ rõ: giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn không phải chỉ là nhiệm vụ của nông dân, khu vực nông thôn mà là của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã xây dựng và trình Quốc hội Chương trình MTQG về xây dựng NTM – đây là Chương trình tổng thể về phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng được triển khai trên phạm vi nông thôn toàn quốc, hợp lòng dân, sát với yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân.

Xác định được tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng NTM, Hội nghị lần thứ Ba, khóa VII của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã bàn và đề ra nhiệm vụ MTTQ Việt Nam các cấp thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM, trong đó xác định giải pháp để Mặt trận tham gia thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM thông qua các cuộc vận động và các phong trào thi đua yêu nước và thực hiện trách nhiệm tham gia xây dựng bổ sung tiêu chí NTM, giám sát thực hiện các chính sách trong xây dựng NTM, giám sát việc đánh giá, xét, công nhận hoàn thành tiêu chí NTM phù hợp với từng giai đoạn. Để tạo cơ chế thực hiện chương trình xây dựng NTM thông qua Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh”, Đảng đoàn MTTQ Việt Nam đã đề xuất Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh” (Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 15/12/2016 của Ban Bí thư Trung ương đảng khóa XII); Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phối hợp với Chính phủ ký Nghị quyết Liên tịch về phối hợp thực hiện giảm nghèo bền vững, xây dựng NTM, đô thị văn minh (NQLT số 88/NQLT/CP- ĐCTUBTWMTTQVN, ngày 07/10/2016). Trong các văn bản lãnh đạo của Ban Thường trực và Nghị quyết liên tịch của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam với Chính phủ đều khẳng định: ngoài nhiệm vụ tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương phát huy vai trò của người dân tham gia xây dựng NTM thì MTTQ Việt Nam cần tăng cường công tác giám sát thực hiện xây dựng NTM góp phần đưa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, nâng cao đời sống Nhân dân.

Trên cơ sở định hướng, kế hoạch của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, MTTQ Việt Nam các cấp đã tổ chức các hoạt động giám sát, phản biện xã hội xây dựng NTM với nhiều nội dung, phương thức phù hợp; đặc biệt Mặt trận đã hướng dẫn Nhân dân tham gia giám sát trực tiếp, phát huy vai trò của Ban TTND, Ban GSĐTCĐ trong việc giám sát các nội dung, tiêu chí NTM, các dự án đầu tư xây dựng nông nghiệp, nông thôn. Hàng năm, MTTQ Việt Nam các cấp đã chủ trì, phối hợp với các tổ chức thành viên xác định nội dung và xây dựng kế hoạch tổ chức giám sát việc thực hiện các chính sách, dự án trong chương trình mục tiêu xây dựng NTM.

Thông qua hoạt động giám sát của Mặt trận đã giúp cho Chính phủ, chính quyền và ngành chức năng các cấp điều chỉnh các nội dung và chính sách trong xây dựng NTM, hỗ trợ nông dân phù hợp hơn và được Nhân dân đồng tình ủng hộ. Phương thức hoạt động mới của MTTQ Việt Nam trong giám sát xây dựng NTM là tổ chức lấy ý kiến sự hài lòng của người dân về kết quả xây dựng NTM – đây là hình thức giám sát trực tiếp của người dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM đã được phát huy hiệu quả trong thời gian qua. Hoạt động của Mặt trận các cấp đã góp phần rất quan trọng vào kết quả xây dựng nông thôn mới những năm vừa qua.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu, hoạt động giám sát vẫn còn những hạn chế nhất định về số lượng và chất lượng các cuộc giám sát, nhất là việc giám sát liên quan đến vấn đề đất đai trong giải phóng mặt bằng xây dựng NTM; giám sát trong đầu tư cơ bản xây dựng NTM, giám sát sử dụng các nguồn lực xây dựng NTM; giám sát về việc thực hiện quy trình đánh giá hoàn thành các tiêu chí trong xây dựng NTM…

Mặt khác, thực tế hoạt động của các địa phương cho thấy, vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội đã được quy định rõ, tuy nhiên quá trình thực hiện còn nhiều khó khăn, bất cập nhất là những kiến nghị của MTTQ Việt Nam sau khi tổ chức giám sát ít được chính quyền và các ngành chức năng quan tâm, giải quyết. Bên cạnh đó năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ không đồng đều, nhất là trình độ cán bộ Mặt trận cấp cơ sở còn hạn chế, thường xuyên thay đổi; kỹ năng giám sát còn hạn chế; trình độ kỹ năng của thành viên Ban TTND, Ban GSĐTCĐ còn nhiều khó khăn, bất cập…

Thứ hai,Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030

Thực hiện Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 được đồng bộ, kịp thời, thống nhất và có hiệu quả, ngày 14 tháng 10 năm 2021 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số: 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 ( gọi tắt là Chương trình).

 Phạm vi, Đối tượng thụ hưởng Chương trình

Trên địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; trong đó, ưu tiên nguồn lực của Chương trình đầu tư cho các địa bàn đặc biệt khó khăn (xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn), xã an toàn khu (ATK) thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

tm-img-alt
Hàng năm, MTTQ Việt Nam các cấp đã chủ trì, phối hợp với các tổ chức thành viên xác định nội dung và xây dựng kế hoạch tổ chức giám sát việc thực hiện các chính sách, dự án trong chương trình mục tiêu xây dựng NTM. Ảnh minh hoạ

Ngày 04/6/2021 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 861/ QĐ – TTg Phê duyệt danh sách 3.434 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn 51 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bao gồm: 1.673 xã khu vực I, 210 xã khu vực II và 1.551 xã khu vực III (danh sách kèm theo) bao gồm: (1) Xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;(2) Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; (3) Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn;(4) Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (HTX), các tổ chức kinh tế hoạt động ở địa bàn các xã, thôn đặc biệt khó khăn.

Các xã khu vực III, khu vực II đã được phê duyệt tại Quyết định số 861/ QĐ – TTg nếu được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới sẽ được xác định là xã khu vực I và thôi hưởng các chính sách áp dụng đối với xã khu vực III, khu vực II kể từ ngày Quyết định của cấp có thẩm quyền công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới có hiệu lực. (Danh sách cụ thể 3.434 xã được phê duyệt đề nghị nghiên cứu Quyết định số 861/ QĐ – TTg, ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ)

 Các dự án thành phần của Chương trình

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 bao gồm 10 dự án thành phần trong đó có 14 tiểu dự án trực thuộc như sau:

1. Dự án 1: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt

2. Dự án 2: Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết.

3. Dự án 3: Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị

a) Tiểu dự án 1: Phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp bền vững gắn với bảo vệ rừng và nâng cao thu nhập cho người dân

b) Tiểu dự án 2: Hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, vùng trồng dược liệu quý, thúc đẩy khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp và thu hút đầu tư vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

c) Tiểu dự án 3: Phát triển kinh tế xã hội – mô hình bộ đội gắn với dân bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

4. Dự án 4: Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và các đơn vị sự nghiệp công lập của lĩnh vực dân tộc

a) Tiểu dự án 1: Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

b) Tiểu dự án 2: Đầu tư cơ sở vật chất các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực công tác dân tộc

5. Dự án 5: Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

a) Tiểu dự án 1: Đổi mới hoạt động, củng cố phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông có học sinh ở bán trú và xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

b) Tiểu dự án 2: Bồi dưỡng kiến thức dân tộc; đào tạo dự bị đại học, đại học và sau đại học đáp ứng nhu cầu nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

c) Tiểu dự án 3: Dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

d) Tiểu dự án 4: Đào tạo nâng cao năng lực cho cộng đồng và cán bộ triển khai Chương trình ở các cấp.

6. Dự án 6: Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch

7. Dự án 7: Chăm sóc sức khỏe Nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em

8. Dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em

9. Dự án 9: Đầu tư phát triển nhóm dân tộc thiểu số rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn

a) Tiểu dự án 1: Đầu tư phát triển kinh tế – xã hội các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, dân tộc có khó khăn đặc thù

b) Tiểu dự án 2: Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

10. Dự án 10: Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Kiểm tra, giám sát đánh giá việc tổ chức thực hiện Chương trình

a) Tiểu dự án 1: Biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến, phát huy vai trò của người có uy tín; phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và tuyên truyền, vận động đồng bào; truyền thông phục vụ tổ chức triển khai thực hiện Đề án tổng thể và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030.

b) Tiểu dự án 2: Ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

c) Tiểu dự án 3: Kiểm tra, giám sát, đánh giá, đào tạo, tập huấn tổ chức thực hiện Chương trình.

Căn cứ những quy định về quyền và trách nhiệm về giám sát của MTTQ Việt Nam, các Tổ chức CTXH (quy định của Đảng, của Nhà nước); những quy định pháp luật về Đất đai, quy hoạch, đầu tư, quản tài chính, ngân sách, ngân hàng… (Luật Đất đai, Luật Quy hoạch, Luật đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật ngân sách, Luật Chính quyền địa phương….và các văn bản hướng dẫn thi hành…) Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã xây dựng chương trình giám sát cho giai đoạn 2021-2025, hằng năm cụ thể hóa bằng kế hoạch giám sát và phản biện xã hội, tổ chức triển khai, tập huấn cách làm và thường xuyên rút kinh nghiệm.  Trước mắt là giám sát việc thể chế, tích hợp các chính sách, thực hiện mục tiêu, đối tượng thụ hưởng, nội dung, phân công thực hiện và nguồn vốn phân bổ cho từng dự án, tiểu dự án.

4. Đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp trong giám sát, phản biện xã hội, thúc đẩy phát triển vùng theo Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị

(1) Các cấp ủy, chính quyền các cấp trong vùng triển khai đồng bộ các giải pháp, đặc biệt là các giải pháp đột phá, tạo sự chuyển biến nhận thức thật sâu và xác định thật rõ: Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế – xã hội; môi trường sinh thái lẫn quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Phát triển nhanh và bền vững Vùng, từng bước thu hẹp trình độ phát triển và mức sống của nhân dân trong vùng so với các vùng khác trong cả nước; coi đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, có ý nghĩa không chỉ về kinh tế – xã hội mà còn là, và trước hết là về chính trị, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của các địa phương trong vùng và cả nước.

Phải đặt vấn đề liên thông, liên kết phát triển vùng trong tổng thể phát triển chung của cả nước, phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, bảo đảm thống nhất với hệ thống quy hoạch quốc gia; phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia. Các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương trong vùng cần cụ thể hóa Nghị quyết và Chương trình hành động của Chính phủ bằng các cơ chế, chính sách, kế hoạch, đề án, dự án và nguồn lực cụ thể, có tính khả thi cao. Đề nghị Chính phủ cần tập trung ưu tiên sớm hoàn thiện và ban hành Quy hoạch phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tạo cơ sở để các địa phương trong vùng xây dựng quy hoạch phát triển của địa phương mình.

Đặc biệt là khơi dậy ý chí khát vọng vươn lên, sự vào cuộc và đồng lòng của toàn dân, biến niềm tự hào truyền thống cách mạng thành quyết tâm hành động mới của mọi người.

Kịp thời thông tin về hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền các cấp, nhất là xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án có tác động, ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân; thực hiện tiếp xúc, đối thoại, gương mẫu về đạo đức, lối sống, trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Ứng dụng công nghệ thông tin, đưa các dịch vụ phục vụ về đến với người dân ở khu dân cư, vùng sâu, vùng xa để đồng bào có cơ hội tiếp cận khoa học, tri thức, tạo sinh kế, việc làm, thu nhập cho người dân, để người dân vươn lên đóng góp vào sự phát triển và được thụ hưởng thành quả của sự phát triển..

Tổ chức thực hiện tốt các chế độ, chính sách của các chương trình mục tiêu quốc gia gắn liền với thực hiện Luật dân chủ ở cơ sở vừa được kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XV thông qua.

(2) Rà soát các quy chế, chương trình phối hợp đã được ký kết để sửa đổi, bổ sung, ban hành  mới nhằm tăng cường phối hợp, hiệp thương thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên trong xây dựng, thực hiện chương trình, kế hoạch giám sát, phản biện xã hội. Tùy từng nội dung và điều kiện cụ thể ở từng địa phương thực hiện 4 hình thức giám sát, 3 hình thức phản biện xã hội cho phù hợp. Đặc biệt phát huy Giám sát đầu tư của cộng đồng đối với các công trình, dự án thành phần của Chương trình là hoạt động tự nguyện của dân cư sinh sống trên địa bàn xã, phường, thị trấn nhằm theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý đầu tư của cơ quan, đơn vị liên quan trong quá trình đầu tư các công trình, dự án thành phần của Chương trình; phát hiện, kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm về đầu tư các công trình, dự án thành phần của Chương trình (trừ các chương trình, dự án bí mật quốc gia theo quy định của pháp luật).

Các công trình, dự án thành phần của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn I (2021 – 2025) đều được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách do vậy Giám sát đầu tư của cộng đồng đối với các công trình, dự án thành phần của Chương trình được thực hiện như Giám sát đầu tư của cộng đồng đối với các công trình, dự án đầu tư công, được áp dụng thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư công và Nghị định số 29/ NĐ – CP, ngày 26/3/2021 của Chính phủ (Nghị định 29).

(3) Hoàn thiện Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ làm công tác giám sát, phản biện xã hội; đổi mới nâng cao chất lượng hiệu quả của các tổ chức tư vấn thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, vận động khuyến khích các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, các nhân sĩ, trí thức, doanh nhân, người có kinh nghiệm thực tiễn, người có uy tín, tiêu biểu trong các dân tộc, tôn giáo và nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội;

 (4) Rà soát, sửa đổi, bổ sung các điều kiện bảo đảm thực hiện giám sát, phản biện xã hội, các quy định, quy chế về tổ chức hoạt động của các Hội đồng tư vấn;

 (5) Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng giám sát, phản biện xã hội cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác Mặt trận chuyên trách từ Trung ương đến địa phương;

 (6) Kịp thời tôn vinh, khen thưởng, nhân rộng mô hình hay, kinh nghiệm tốt trong công tác này.

Giám sát xây dựng nông thôn mới cũng như các chương trình mục tiêu quốc gia là quá trình thường xuyên, liên tục với sự tham gia của các tổ chức và nhân dân. Mặt trận với tư cách chủ trì thực hiện cuộc vận động, phản biện xã hội, giám sát việc thực hiện phải kết hợp chặt chẽ giữ tuyên truyền, vận động với lắng nghe ý kiến nhân dân. Trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện có lắng nghe ý kiến, phát hiện những vướng mắc, bất cập để phản ánh, kiến nghị. Trong giám sát, phản biên xã hội có tuyên truyền, truyền thông chính sách. Vì thế các giải pháp để phát huy các hình thức giám sát theo qui định, đặc biệt là hình thức giám sát thông qua hoạt động của ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng, thực hiện dân chủ ở cơ sở, huy động sự tham gia của người dân vào giám sát mang tính khả thi cao.

Qua đây cho thấy giám sát phải hướng về cơ sở, cần sự tham gia rộng rãi của người dân; thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; trong giám sát không những chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, sai phạm để khắc phục và phòng ngừa mà còn có cả hiến kế, cách làm hiệu quả. Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận dựa vào nhân dân sẽ có rất nhiều sáng tạo, cách làm thiết thực, hiệu quả.

 Ngô Sách Thực

Nguyên Phó Chủ tịch, Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam

Nguồn: Báo Môi Trường và Đô Thị

Bạn cũng có thể thích