Tiêu chuẩn và chứng nhận – chìa khóa để tham gia thị trường Halal
Tham dự Hội thảo có TS. Hà Minh Hiệp, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng; Đại sứ Malaysia tại Việt Nam Dato’Tan Yang; ông Trần Quốc Dũng – Giám đốc Trung tâm QUACERT, đại diện các đơn vị thuộc Tổng cục, Đại sứ quán các nước Angola, UAE, Brunei, Palestine, Algeria, Ả Rập Xê Út, Quatar, Iran, Libya, các tổ chức, doanh nghiệp.
Phát biểu tại Hội thảo, TS. Hà Minh Hiệp cho biết, tham gia và hội nhập vào thị trường Halal là nhiệm vụ mà Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo nhà nước rất quan tâm. Bên cạnh đó, Tổng cục TCĐLCL được giao thành lập Trung tâm Chứng nhận Quốc gia về Halal trong đó có sự đồng hành của Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông. Hoạt động chứng nhận Halal là nội dung rất mới, đây không chỉ là vấn đề khoa học, y tế, mà còn là vấn đề xã hội, Tổng cục luôn cầu thị, học hỏi các nước để làm sao hoạt động chứng nhận Halal được tốt nhất.
TS. Hà Minh Hiệp, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng.
“Hội thảo tổ chức với ý nghĩa mong muốn nhận sự hỗ trợ và tham gia thị trường các nước, đồng thời chứng minh được tầm quan trọng của tiêu chuẩn, chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn Halal trong thúc đẩy sự tham gia của Việt Nam vào thị tường Halal toàn cầu một cách bền vững”, TS. Hà Minh Hiệp nhấn mạnh.
Cũng tại Hội thảo, Đại sứ Malaysia tại Việt Nam Dato’Tan Yang Thái cho hay, các thực phẩm, sản phẩm đạt chất lượng an toàn và được chứng nhận Halal là niềm tin cho người tiêu dùng Hồi giáo. Chứng nhận Halal được thực hiện bởi các cơ quan chứng nhận Halal độc lập, có đủ điều kiện và người kiểm tra, xác minh, xác nhận các nguồn, thành phần, quy trình và cơ sở liên quan đến việc sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ Halal.
Việc chứng nhận Halal cũng liên quan đến dán nhãn và tiếp thị các sản phẩm, dịch vụ với logo hoặc biểu tượng của Halal dễ được nhận biết. Chứng nhận Halal đem lại rất nhiều lợi ích cho cả nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Đại sứ Malaysia tại Việt Nam Dato’Tan Yang Thái.
Cũng theo Đại sứ Malaysia tại Việt Nam, đối với nhà sản xuất, chứng nhận Halal giúp tăng thị phần và sự trung thành của khách hàng, danh tiếng, thương hiệu, lợi thế cạnh tranh. Đối với người tiêu dùng, chứng nhận Halal có thể bảo vệ quyền về Tôn giáo, lợi ích về sức khỏe và lựa chọn của họ. Chứng nhận Halal cũng có thể thúc đẩy sự tin tưởng, minh bạch, trách nhiệm giải trình giữa các quyền liên quan trong ngành công nghiệp Halal.
“Được biết, Trung tâm QUACERT và Tổng cục TCĐLCL đang trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn Halal cho Việt Nam và đang rất nỗ lực tham gia cùng các đối tác quốc tế liên quan để đảm bảo chứng nhận Halal do các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam được công nhận trên toàn cầu. Điều này vô cùng quan trọng đối với nhà sản xuất, xuất khẩu trong nước để họ có thể thâm nhập thị trường Halal toàn cầu. Đây là cơ hội rất tốt cho một quốc gia không theo đạo Hồi như Việt Nam”, Đại sứ Malaysia tại Việt Nam Dato’Tan Yang Thái khẳng định.
Tại hội thảo, các diễn giả đã có bài tham luận liên quan đến “Kinh tế – văn hóa Halal và tiềm năng/cơ hội của Việt Nam” do PGS.TS Đinh Công Hoàng – Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông chia sẻ; “Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về Halal và định hướng xây dựng tiêu chuẩn Ngành Halal Việt Nam” do TS. Triệu Việt Phương – Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam trình bày; “Hoạt động Chứng nhận Phù hợp Tiêu chuẩn Halal phục vụ thúc đẩy sự tham gia của Việt Nam vào thị trường Halal toàn cầu” do ông Trần Quốc Dũng – Giám đốc Trung tâm QUACERT chia sẻ và tham luận “JAKIM và hệ thống chứng nhận Halal toàn cầu” do ông Osman Ramlan – Chuyên gia về Halal chia sẻ.
Lễ ký Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa QUACERT và IAMES.
Hội thảo cũng trao đổi, đánh giá thực trạng, triển vọng ngành Halal tại Việt Nam; xác định các biện pháp, cách thức mới về tăng cường hợp tác và tận dụng các nguồn lực quốc tế để nâng cao năng lực tham gia của doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ Halal trên toàn cầu và xây dựng định hướng phát triển ngành Halal Việt Nam toàn diện, bền vững.
Thị trường Halal được đánh giá là thị trường tiềm năng và là cơ hội cho Việt Nam trong phát triển ngành công nghiệp Halal. Theo phân tích của Trung tâm phát triển Halal (Malaysia), thị trường Halal toàn cầu đạt 3000 tỷ USD năm 2020 và ước tính đạt 5000 tỷ USD năm 2030.
Dự báo mức tăng của từng khu vực cụ thể như sau: Khu vực Bắc Mỹ: dự kiến tăng 50%, đạt 300 triệu USD năm 2030; Khu vực Châu Âu và lục địa Á – Âu: dự kiến tăng 67%, đạt 500 triệu USD năm 2030; Khu vực châu Á Thái Bình Dương: dự kiến tăng 75%, đạt 2800 triệu USD năm 2030; Khu vực Trung Đông và Bắc Phi: dự kiến tăng 50%, đạt 1200 triệu USD năm 2030; Khu vực Tiểu sa mạc Sahara – Châu Phi: dự kiến tăng 100%, đạt 400 triệu USD năm 2030.
So với các nước trong khu vực, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành Halal với vị trí địa lý thuận lợi, có nhiều thế mạnh về nông nghiệp, thực phẩm, du lịch, dịch vụ…; thị trường rộng lớn và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện khi tham gia nhiều liên kết kinh tế hàng đầu khu vực, trong đó có các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam quan tâm tới việc khai mở và hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia hiệu quả vào thị trường Halal toàn cầu.
Hội thảo thu hút đông đảo đại biểu tham dự.
Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam gặp phải một số khó khăn nhất định đối với sản xuất và xuất khẩu sản phẩm Halal. Bên cạnh chi phí đầu tư dây chuyển sản xuất, trang thiết bị để sản xuất sản phẩm Halal, doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong tìm hiểu thông tin về văn hóa thị trường Halal, tiêu chuẩn Halal, quy trình chứng nhận Halal, đặc biệt là việc đạt chứng nhận Halal đa dạng, phù hợp với yêu cầu riêng của từng thị trường.
Với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin chính xác về yêu cầu tiêu chuẩn Halal của các thị trường cũng như yêu cầu về chứng nhận Halal, thời gian trước mắt, Tổng cục TCĐLCL sẽ thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia. Đây sẽ là cơ quan chứng nhận chính thức của quốc gia cung cấp các dịch vụ chứng nhận sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ theo tiêu chuẩn Halal; tổ chức, đào tạo, tập huấn về các tiêu chuẩn, yêu cầu Halal cho tổ chức/doanh nghiệp Việt Nam phù hợp với thị trường xuất khẩu của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam và triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Halal nhằm đối thoại chính sách, tăng cường cung cấp thông tin thị trường cho hiệp hội, doanh nghiệp, đẩy mạnh kết nối doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Tổng cục TCĐLCL sẽ tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện bộ tiêu chuẩn quốc gia cho sản phẩm, dịch vụ Halal trên cơ sở hài hòa tiêu chuẩn quốc tế, khu vực và nước nhập khẩu. Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia sẽ hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thông tin, hiểu yêu cầu quy định đối với thị trường và sản phẩm, dịch vụ Halal.
Trong khuôn khổ Hội thảo đã diễn ra Lễ ký Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa Quacert và IAMES với mục tiêu phát triển kiến thức, xây dựng tiêu chuẩn, dịch vụ chứng nhận, hợp tác quốc tế về Halal cho các tổ chức, doanh nghiệp, sinh viên và cơ quan chính phủ khác nhau để nâng cao sự hiểu biết và thực hành Halal dựa trên cơ sở năng lực và kiến thức của mỗi bên.
Tới nay, Việt Nam đã ban hành 5 tiêu chuẩn quốc gia TCVN lĩnh vực Halal (TCVN 12944:2020 Thực phẩm Halal – Yêu cầu chung; TCVN 13708:2023 Thực hành nông nghiệp tốt đối với cơ sở sản xuất Halal; TCVN 13709:2023 Thức ăn chăn nuôi Halal; TCVN 13710:2023 Thực phẩm halal – Yêu cầu đối với giết mổ động vật; TCVN 13888:2023 Đánh giá sự phù hợp – Yêu cầu đối với tổ chức chứng nhận sản phẩm, quá trình và dịch vụ Halal).
Các tiêu chuẩn được xây dựng trên cơ sở hài hòa với tiêu chuẩn phổ biến như: Tiêu chuẩn CODEX CXG 24-1997 General Guidelines for Use of the Term Halal, Tiêu chuẩn Malaysia MS 1500:2019 Halal Food – Yêu cầu chung, GSO 2215:2012, Thực hành nông nghiệp tốt (Tiêu chuẩn khu vực vùng Vịnh), UAE.S 2055 -1:2015 sản phẩm Halal – Phần 1 – Yêu cầu chung đối với thực phẩm Halal (Tiêu chuẩn Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất).
Hà My