An Giang: Chỉ số sản xuất công nghiệp, thương mại dịch vụ phục hồi tăng trưởng khá

Đáng chú ý, những tháng cuối năm là thời gian cao điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa tiếp tục gia tăng sản lượng đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu cuối năm và nhu cầu tiêu dùng tăng cao vào dịp lễ, Tết trong nước.

Sản xuất công nghiệp phát triển

Phát huy hiệu quả giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn được các ngành, các cấp triển khai thực hiện thời gian qua,  sản xuất công nghiệp tháng 11 tiếp tục xu hướng phát triển, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đẩy mạnh sản xuất đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa và xuất khẩu. Một số sản phẩm: gạo, cá phi lê xuất khẩu, đá xây dựng… thuận lợi về thị trường tiêu thụ, nên sản xuất tăng cao. Bên cạnh đó, một số ngành như sản xuất da giày, sản xuất bao bì quy mô tạm thời thu hẹp vì đơn hàng bị sụt giảm.

Theo Cục Thống kê tỉnh cho biết, ước chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tháng 11/2023 tăng 3,74% so tháng trước và tăng 12,37% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 15,54% so tháng trước và tăng 11,42% so cùng kỳ; ngành chế biến, chế tạo tăng 3,29% so tháng trước và tăng 12,58% so cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,15% so tháng trước và tăng 12,17% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,14% so tháng trước và tăng 9,58% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 8,91% so cùng kỳ; trong đó, ngành khai khoáng tăng 7,45%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,01%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,70%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,51%.

Tốc độ tăng chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu trên địa bàn có tốc độ tăng trưởng khá như sản lượng đá xây dựng khai thác tháng 11/2023 ước đạt 710,2 ngàn m3, tăng 15,54% so tháng trước và tăng 11,42% so cùng kỳ; tính chung, 11 tháng năm 2023 tổng sản lượng đá khai thác ước đạt 6.392,6 ngàn m3, tăng 7,45% so cùng kỳ. Sản phẩm đá xây dựng cơ bản đáp ứng nhu cầu xây dựng các công trình trọng điểm trong tỉnh và các tỉnh lân cận. 

Tình hình xuất khẩu thủy sản những tháng cuối năm khả quan hơn, các doanh nghiệp ký kết thêm đơn hàng xuất khẩu từ Mỹ, Trung Quốc, các nước thuộc khối CPTPP,… nên hoạt động sản xuất tăng hơn tháng trước. Sản phẩm thủy sản đông lạnh tháng 11/2023 ước đạt 18,4 ngàn tấn, tăng 3,52% so tháng trước và tăng 6,76% so cùng kỳ; tính chung, 11 tháng năm 2023 ước đạt 144,9 ngàn tấn, tăng 5,82% so cùng kỳ. Bên cạnh xuất khẩu thành phẩm chế biến phi lê, các doanh nghiệp còn xuất khẩu cá nguyên con và cá cắt khúc. Sản phẩm thủy sản tiêu thụ phần lớn ở các thị trường truyền thống, như: Trung Quốc, EU, Mỹ, Brazil, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia .v.v;

Về sản lượng gạo xay xát tháng 11/2023 ước đạt 186,7 ngàn tấn, tăng 3,82% so tháng trước và tăng 17,95% so cùng kỳ; tính chung 11 tháng năm 2023 ước đạt 1.846,0 ngàn tấn, tăng 9,78% so cùng kỳ. Sản phẩm gạo xay xát khá thuận lợi, giá gạo xuất khẩu đang ở mức cao, có đơn đặt hàng, thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước được ổn định, các doanh nghiệp giữ nhịp độ sản xuất và tăng so cùng kỳ;

Đáp ứng nhu cầu xây dựng các công trình, sản phẩm bê tông trộn sẵn tháng 11/2023 ước đạt 15,7 ngàn m3, tăng 9,80% so với tháng trước và tăng 10,61% so với cùng kỳ; tính chung, 11 tháng năm 2023 ước đạt 161,6 ngàn m3, tăng 9,17% so cùng kỳ. Đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện tăng cao nên sản lượng điện năng lượng mặt trời sản xuất tiếp tục tăng, ước tháng 11/2023 đạt 50,9 triệu kwh, tăng 7,09% so tháng trước và tăng 14,47% so cùng kỳ; tính chung, 11 tháng năm 2023 ước đạt 592,4 triệu kwh, tăng 14,97% so cùng kỳ;

Sản phẩm nước đá sản xuất tháng 11/2023 ước đạt 14,1 ngàn tấn, tăng 3,28% so tháng trước và tăng 2,96% so cùng kỳ; tính chung, 11 tháng năm 2023 ước đạt 171,5 ngàn tấn, tăng 6,41% so cùng kỳ. Sản phẩm nước sinh hoạt tháng 11/2023 ước đạt 8,1 triệu m3, tăng 0,08% so tháng trước và tăng 11,44% so cùng kỳ; tính chung, 11 tháng năm 2023 ước đạt 89,3 triệu m3 tăng 6,97% so cùng kỳ.; Các doanh nghiệp may mặc dần hồi phục, có nhiều hơn đơn đặt hàng từ Mỹ, nên sản xuất tương đối ổn định. Sản phẩm quần áo sơ mi tính chung 11 tháng năm 2023 ước đạt 38 triệu sản phẩm, tăng 10,67% so cùng kỳ.

Bên cạnh một số sản phẩm sản xuất tăng, do nhiều nguyên nhân như thị trường tiêu thụ khó khăn nên sản xuất có giảm so cùng kỳ như: giày, dép da trong 11 tháng năm 2023 sản xuất ước đạt 18,9 triệu đôi, giảm 45,33% so cùng kỳ; sản phẩm bao bì ước đạt 9.250,4 tấn, giảm 41,25% so cùng kỳ…

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dự tính tháng 11/2023 tăng 4,74% so tháng trước, nhưng giảm 17,74% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dự tính tháng 11/2023 giảm 6,93% so tháng trước và tăng 2,76% so cùng kỳ; tính chung 11 tháng năm 2023 giảm 8,18% so cùng kỳ. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tăng 1,32% so tháng trước và tăng 6,10% so cùng kỳ; tính chung 11 tháng năm 2023 giảm 3,77% so cùng kỳ.

Thương mại và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Thời gian qua, tỉnh An Giang luôn quan tâm hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm đa dạng hóa thị trường, tăng chuỗi cung ứng và xuất khẩu hàng hóa. Từ đó, đưa hàng hóa của tỉnh tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng, mở rộng thị trường, góp phần phát triển kinh tế của tỉnh. Cùng với đó, xây dựng chiến lược phát triển các sản phẩm, ngành hàng gắn với chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia; xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch, xây dựng thương hiệu; mở rộng thị trường xuất khẩu, xúc tiến thương mại, du lịch và thu hút đầu tư; hỗ trợ bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.

Hoạt động thương mại – dịch vụ tiếp tục phát triển khá tốt, nhiều hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích, thực hiện nhiều chương trình khuyến mại kích cầu tiêu dùng; sức tiêu thụ hàng hóa tăng đều ở tất cả các nhóm hàng thiết yếu như: Lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, đồ dùng dụng cụ trang thiết bị gia đình… Tỉnh tiếp tục triển khai hiệu quả Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, với nội dung phát triển hệ thống phân phối hàng hóa cố định và bền vững, ưu tiên hàng Việt Nam, hàng đặc sản địa phương. Đồng thời, quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh; ứng dụng phần mềm tiện ích, nghiệp vụ thương mại điện tử. Nhờ đó, hoạt động bán buôn, bán lẻ trên toàn tỉnh tăng trưởng mạnh. Bên cạnh đó, với lợi thế có nhiều danh lam thắng cảnh, công tác quảng bá được các ngành, địa phương tăng cường trên nền tảng các mạng xã hội đã thu hút khách đến An Giang tham quan và du lịch ngày càng đông. Ước 11 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh đón tổng số 8,3 triệu lượt khách tham quan và du lịch, tăng 14% so với cùng kỳ, đây là một trong những nhân tố thúc đẩy thương mại, dịch vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí tăng trưởng cao trong năm 2023.

                                          Gạo của Tập đoàn Lộc Trời. Ảnh Trọng Triết

Ước doanh thu bán buôn, bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tháng 11/2023 đạt 16.640,1 tỷ đồng, tăng 1,73% so tháng trước và tăng 15,99% so với cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đầu năm ước đạt 177.714,4 tỷ đồng, tăng 15,66%, bao gồm doanh thu bán buôn hàng hóa tháng 11/2023 ước đạt 9.431,6 tỷ đồng, tăng 1,87% so tháng trước, tăng 14,37% so cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đầu năm đạt 99.704,8 tỷ đồng, tăng 14,65%; ước năm 2023 đạt 109.166,1 tỷ đồng, tăng 15,13% so năm trước. Tỉnh An Giang với lợi thế sản xuất hàng nông sản quy mô lớn, khối lượng khai thác đá và chế biến vật liệu xây dựng nhiều, kinh doanh phân bón thuốc trừ sâu,… thuận lợi cho các doanh nghiệp bán buôn tiêu thụ hàng hóa trong và ngoài tỉnh, hoạt động xuất khẩu hàng hóa.

Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 11/2023 ước đạt 4.926,4 tỷ đồng, tăng 1,22% so tháng trước, tăng 17,47% so cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đầu năm đạt 53.464,5 tỷ đồng, tăng 16,37%; ước năm 2023 đạt 58.387,1 tỷ đồng, tăng 16,50% so năm trước. Qua 11 tháng đầu năm, các nhóm hàng bán lẻ về lương thực, thực phẩm tăng 15,77%; hàng may mặc tăng 19,57%; đồ dùng và trang thiết bị gia đình tăng 19,95%; vật liệu xây dựng tăng 16,79%;…

Ước doanh thu các ngành dịch vụ tháng 11/2023 đạt 2.282 tỷ đồng, tăng 2,29% so tháng trước, tăng 19,72% so cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đầu năm đạt 24.24.545,1 tỷ đồng, tăng 18,30%. Trong đó, doanh thu của ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 11/2023 ước đạt 1.223,8 tỷ đồng, tăng 0,42% so tháng trước, tăng 21,58% so tháng cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đầu năm đạt 13.271,1 tỷ đồng, tăng 21,98%. Doanh thu các ngành bất động sản, giáo dục, y tế, vui chơi giải trí,… tháng 11/2023 đạt 1.058,1 tỷ đồng, tăng 4,54% so tháng trước, tăng 17,64% so tháng cùng kỳ; cộng dồn 11 tháng đầu năm đạt 11.274 tỷ đồng, tăng 14,24%./.

Nguồn: hoanhap.vn

Bạn cũng có thể thích