Đại diện 13 Hiệp, Hội kiến nghị xem xét lại Luật BHXH (sửa đổi)

(Xây dựng) – Dự án Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH, sửa đổi) được Quốc hội thảo luận tại kỳ lần thứ 6, thông qua tại kỳ họp tháng 5/2024. Dự kiến, Luật BHXH sửa đổi có hiệu lực từ 1/7/2025. Mới đây, đại diện 13 Hiệp, Hội có kiến nghị gửi đến Quốc hội, các cơ quan ban ngành xem xét điều chỉnh, bổ sung Luật BHXH (sửa đổi) để hoàn chỉnh hơn.

Đại diện 13 Hiệp, Hội kiến nghị xem xét lại Luật BHXH (sửa đổi)
Nhiều lao động ở thành phố Cần Thơ chờ hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Mức đóng BHXH cao so với khu vực và thế giới

Theo đơn kiến nghị, mức đóng BHXH nước ta tăng và cao so với khu vực. Dự thảo quy định tỷ lệ đóng bảo hiểm bắt buộc (gọi tắt là BHXH) gồm BHXH, Bảo hiểm y tế (BHYT), Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đối với người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) có hợp đồng lao động vẫn giữ như Luật BHXH 2014. Nghĩa là: NLĐ đóng 10,5% (8% BHXH, 1,5% BHYT và 1% BHTN) và NSDLĐ đóng 21,5% (17,5 BHXH, 3% BHYT và 1% BHTN). Như vậy, tỷ lệ đóng của cả NLD và NSDLD là 32%.

Tính toán, tổng mức đóng vào quỹ BHXH của cả NLD và NSDLĐ dựa trên tỷ lệ đóng (từ 23% năm 2007, 25% năm 2009 do đóng thêm 1% BHTN của NLD và NSDLD, tăng lên 32% năm 2017 đến nay) và mức lương tối thiểu vùng. Qua đó, từ năm 2007 năm 2022, trừ năm 2021 không tăng do Covid-19, mức đóng cao hơn gấp 10 lần. So với khu vực và thế giới, tỷ lệ đóng BHXH của NSDLĐ ở Việt Nam đang cao hơn rất nhiều nước. Cụ thể Malaysia đóng 16,5%, Ấn Độ 15,25%, Indonesia 10,26%, Campuchia 6,1%, Thái Lan 5%, Myanma 2%, Bangladesh 0%…; Hầu hết, các nước trên đều đóng BHXH trên nền đóng giống Việt Nam. Và tại Thái Lan, nguồn quỹ BHXH không chỉ từ NLĐ và NSDLĐ mà Chính phủ cũng đóng góp thêm.

Do đó, các Hiệp, Hội kiến nghi, đối với tỷ lệ đóng BHXH bắt buộc của NLĐ và NSDLĐ: Đưa về mức đóng của năm 2009, tức là NLD đóng 5% và NSDLĐ đóng 15%, tổng cộng 20%, chứ không phải 25,5% như hiện nay (NSDLĐ đóng 17,5% “trong đó, 3% quỹ ốm đau thai sản, 14% quỹ hưu trí và tử tuất và 0,5% bảo hiểm tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp (BH TNLD BNN)” và NLĐ đóng 8%)”, kiến nghị ghi rõ.

Tương tự, đối với tỷ lệ đóng BHTN, hiện Quỹ BHTN đã kết dư quá nhiều. Trong khi mục đích của quỹ BHTN nhằm đám bảo an sinh xã hội cho NLĐ, và khi quỹ đâ kết dư quá nhiều thì cần giảm mức đóng để điều chỉnh quỹ về mức cân bằng. Đơn đề xuất giảm tỷ lệ đóng vào quỹ BHTN của NLĐ còn 0,5% và của NSDLĐ còn 0,5% và có lộ trình giảm tiếp cho phù hợp với diều kiện thực tế. Đối với tỷ lệ đóng vào quỹ BHYT, NLĐ đóng 1% và NSDLĐ đóng 2%. Như vậy, tỷ lệ đóng của NLĐ sẽ là 6,5% gồm 5% BHXH, 1% BHYT và 0,5% BHTN (giảm 4% so với hiện nay). Tỷ lệ đóng của NSDLĐ là 17,5% gồm 15% BHXH, 2% BHYT và 0,5% BHTN (giảm 4% so với hiện nay).

Các ý kiến cho rằng, tý lệ đóng bảo hiểm của NSDLĐ và NLĐ tại Việt Nam là quá cao so với các nước khác nhưng NLĐ tại các nước này vẫn đảm bảo chi tiêu cuộc sổng khi về hưu. Trên thực tế tại thời điểm đóng vào quỹ thì giá trị tiền NSDLD và NLĐ tại Việt Nam đóng không hề thấp. Do đó, Luật cần xem xét tổng thể việc quản lý một cách hiệu quà quỹ BHXH cũng như cách tính trượt giá nói riêng và nền kinh tế vĩ mô nói chung. Để giảm tỷ lệ đóng BHXH nhưng vần đảm bảo lương hưu thực tế cùa NLĐ đáp ứng được nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống.

Đại diện 13 Hiệp, Hội kiến nghị xem xét lại Luật BHXH (sửa đổi)
Nhân viên Trung tâm giải quyết việc làm thành phố Cần Thơ giải quyết trợ cấp thất nghiệp.

Nhiều bất cập khác

Theo quy định pháp luật hiện hành và theo nội dung dự thảo thì tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc của NLĐ và NSDLĐ theo chể độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định là tiền lương tháng, bao gồm: Mức lương, phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác; được trả thường xuyên và ổn định trong mỗi kỳ trả lương. Mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác được NLD và NSDLĐ căn cứ vào tiền lương tối thiểu vùng để thỏa thuận ghi trong hợp đồng lao dộng. Tuy nhiên, mức hưởng các chế độ thai sản, hưu trí, tử tuất lại hưởng theo 01 mức tiền cụ thể hoặc dựa trên mức lương cơ sở là không hợp lý. Đơn ghi rõ “Nguyên tắc của bảo hiểm là có đóng có hưởng, việc hưởng phải dựa trên mức đóng. Nền đóng là lương tối thiểu vùng, tại sao chế độ hưởng lại theo mức lương cơ sở? Chính phủ tiến tới sẽ bỏ mức lương cơ sở. Quy định hưởng các chế dộ theo 01 mức tiền cụ thể thì qua mỗi năm các chỉ số CPI lại tăng thì mức tiền hưởng chế độ này không còn phù hợp thực tế. NLD lại phải chờ điều chỉnh Luật mới được hưởng mức trợ cấp mới. Bởi vậy, chúng tôi xin đề xuất quy định nền đóng BHXH và mức hưởng các chế độ đều căn cứ theo lương tối thiểu vùng”.

Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang đẩy mạnh mục tiêu số hóa, cải cách thủ tục hành chính bằng hình thức trực tuyến. Tuy nhiên tại Điều 60, 76 và 88 của Dự thảo vần chưa quy định, NLĐ có thể lựa chọn hình thức nộp hồ sơ theo hình thức trực tuyến. Như vậy, nội dung này vẫn chưa đáp ứng được thực tiền, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ. Vì vậy, đề xuất sửa nội dung dự thảo là “người tham gia, người thụ hưởng các chế độ BHXH có thể được lựa chọn nộp hồ sơ theo hình thức trực tuyến hoặc hồ sơ bản cứng”.

Tại Điều 64 quy định, điều kiện hưởng lương hưu và Điều 66 nêu mức lương hưu hàng tháng. Theo dó, tính đến năm 2035, nam đủ 62 tuổi và nữ đủ 60 tuổi mới đủ tuổi nghỉ hưu, ngoài ra luật BHXH quy định NLĐ được nghỉ hưu sớm tối đa 05 tuổi thấp hơn so với tuổi nghỉ hưu khi bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến dưới 81%. Và đối với đối tượng đủ điều kiện nghỉ hưu, cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuồi sẽ bị trừ 2%. Đại diện Hiệp, hội cho rằng, những quy định này không phù hợp với thực tiễn NLĐ. Trên thực tế, có rất nhiều NLĐ tham gia BHXH sớm nên đến 50-55 tuổi sức khỏe đã giảm sút, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu công việc, thậm chí rất khó tìm được việc làm. Họ có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm thậm chí 30 năm. Như vậy, thời gian, số tiền đóng cho BHXH là đã đủ lớn. Nếu chờ đợi đến đủ tuổi nghỉ hưu sẽ gặp khó khăn trong việc đảm bảo chi tiêu cuộc sổng. Và việc để NLĐ lớn tuổi về hưu sớm đã trao cơ hội việc làm cho lao động trẻ có nhiều cơ hội việc làm hơn.

Đối tượng có số thời gian đóng BHXH thấp hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hương hưu 75%. Mỗi năm không đóng BHXH sẽ bị trừ 2% là không hợp lý, mức trừ này quá cao so với mức hưởng trợ cấp 1 lần khi nghi hưu đối với đối tượng có thời gian đóng cao hơn số năm tương ứng tỷ lệ 75% (cứ mỗi năm đóng BHXH thì chỉ được tính bằng 0,5 tháng của mức bình quân tiền lương làm căn cử đóng BHXH). Nếu NLĐ đủ điều kiện nghỉ hưu sớm (đóng BHXH từ đủ 30 năm), mỗi năm nghỉ hưu hưu sớm bị trừ tương ứng 2% là không hợp lý. Việc trừ này không đảm bảo nguyên tắc có đóng có hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều. Tỉ lệ trừ 2% là quá cao. Chính sách BHXH đang cố gắng khuyến khích, động viên NLD ở lại với quỹ BHXH. Do đó tỉ lệ này cần xem xét, đặc biệt có cơ chế thưởng cho những NLĐ tham gia BHXH từ đủ 30 năm trở lên.

Bên cạnh đó, việc tăng tuổi nghỉ hưu làm tăng tỷ lệ rút BHXH 1 lần, giảm số người hướng BHXH 75% chưa hợp lý. Trong trường hợp NLĐ mong muốn, NLĐ đủ tuổi nghỉ hưu sớm (tối đa 05 tuổi thấp hơn so với tuổi nghỉ hưu) theo quy định và có thời gian đóng BHXH trên 20 năm thì được quvền về hưu. Mỗi năm về hưu sớm sẽ bị trừ đi 01 tháng lương hoặc cao nhất bị trừ không quá 1% tương ứng với 1 năm như Luật BHXH 2006. NLĐ đủ tuổi nghỉ hưu sớm (tối đa 05 tuổi thấp hơn so với tuổi nghỉ hưu) theo quy định, có thời gian đóng BHXH đủ 30 năm đối với nữ và 32 năm đối với nam sẽ được về hưu ngay, hưởng hưu tối đa là 75%.

Cách tính trợ cấp 1 lần cho những năm vượt quá thời gian để hưởng BHXH 75% đang được tính bằng “mỗi năm đóng BHXH cao hơn thì được tính bằng 0,5 lần của mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH”, cũng như cách tính tỷ lệ nghỉ lương hưu của những người tham gia đóng BHXH vượt quá số năm quy định để được hưởng mức BHXH 75% là không hợp lý. Lý do: đối với NLĐ muốn rời quỹ BHXH, nhận trợ cấp BHXH một lần thì mỗi năm làm việc (sau 2014) được 2 lần của mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH; trong khi đó, NLĐ vẫn ở lại với quỹ BHXH và đóng góp hơn 30 năm chỉ được nhận 0,5 lần. Vì vậy, tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa nên tính dựa trên tổng thời gian tham gia BHXH tương ứng, không nên áp mức trần 75%.

Các Hiệp, Hội kính đề nghị các quý cơ quan xem xét, cân nhắc điều chỉnh, bổ sung mới để Dự thảo được ban hành không những phù hợp với thực tế của Việt Nam mà còn các nước cạnh tranh khác, là động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam và đảm bảo an sinh xã hội cho NLĐ.

Nguồn: Báo xây dựng

Bạn cũng có thể thích